Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc về đẩy nhanh tiến độ quy hoạch và tham vấn về định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, tổ chức sáng 2/3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã báo cáo tóm tắt về Định hướng quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Với những nội dung cụ thể sau:
1. Về kết quả đạt được và hạn chế, yếu kém chủ yếu trong tổ chức không gian phát triển đất nước giai đoạn 2011-2020
a) Một số kết quả đạt được:
- Phát triển vùng đã có bước chuyển biến, khai thác tốt hơn tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, khu vực; tăng cường liên kết, nhiều công trình hạ tầng kết nối vùng được hoàn thành; hình thành nhiều vùng kinh tế lớn có vai trò quan trọng trong phát triển đất nước.
- Bước đầu đã hình thành các hành lang kinh tế trên địa bàn các vùng, nhất là các hành lang gắn với các đô thị lớn.
- Không gian đô thị được mở rộng, dần hình thành mạng lưới đô thị, góp phần tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế.
- Đã hình thành nhiều vùng sản xuất tập trung quy mô lớn trong các ngành, lĩnh vực quan trọng, nhất là các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn; các địa bàn tập trung công nghiệp, hệ thống các khu, cụm công nghiệp; các vùng trọng điểm phát triển du lịch.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế được tập trung đầu tư xây dựng, phân bố trên các vùng, tạo diện mạo mới cho đất nước, nhất là hạ tầng giao thông, hạ tầng năng lượng, hạ tầng thuỷ lợi, hạ tầng đô thị, hạ tầng thông tin và truyền thông…
- Nhiều công trình hạ tầng giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ, y tế, văn hoá, thể thao... quan trọng quốc gia, quy mô vùng được quan tâm đầu tư và phân bố trên các vùng.
- Các khu vực cần bảo tồn (vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu bảo tồn biển, ven biển…) được bảo vệ, mở rộng, tăng đa dạng sinh học.
b) Hạn chế, yếu kém:
- Không gian phát triển bị chia cắt theo địa giới hành chính, liên kết vùng hạn chế, nhiều địa phương phát triển không dựa vào lợi thế của mình.
- Đầu tư phát triển dàn trải theo các vùng, miền; chưa tập trung nguồn lực hình thành các vùng động lực, đi trước, có đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế, ngân sách.
- Chưa hình thành được bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, kết cấu hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, khả năng kết nối giữa các phương thức vận tải còn hạn chế.
- Hệ thống đô thị phân bố chưa hợp lý, đô thị hóa chủ yếu phát triển theo chiều rộng, sử dụng đất đô thị chưa hiệu quả, tác động lan tỏa của khu vực đô thị còn hạn chế.
- Chưa hình thành được các trung tâm tài chính lớn; phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu du lịch… còn dàn trải, chưa tạo thành các cụm liên kết ngành lớn, hiệu quả chưa cao.
- Ô nhiễm môi trường liên tỉnh, nhất là ô nhiễm lưu vực sông chậm được khắc phục, ô nhiễm trên biển diễn biến phức tạp.
- Công tác quy hoạch, xây dựng hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai còn hạn chế.
2. Quan điểm, mục tiêu phát triển và một số định hướng về tổ chức không gian
2.1. Quan điểm
Quán triệt các quan điểm phát triển của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2021-2030 và các chủ trương, chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước, các quan điểm chủ yếu về phát triển và tổ chức không gian phát triển đất nước bao gồm:
- Phát triển quốc gia như một thể thống nhất, khắc phục tình trạng phát triển chia cắt theo địa giới hành chính, thúc đẩy liên kết giữa các vùng, địa phương để mở rộng không gian phát triển, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh toàn cầu của quốc gia.
- Phát triển có trọng tâm, trọng điểm, tập trung nguồn lực để hình thành một số vùng động lực, các hành lang kinh tế, các cực tăng trưởng tại các khu vực có tiềm năng, lợi thế để thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển nhanh, hiệu quả.
- Phát triển theo hướng bền vững; bảo đảm sử dụng đất, tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả; bảo vệ môi trường; bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa; tăng cường đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.
- Hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, tạo bộ khung tổ chức không gian phát triển các vùng, các hành lang kinh tế, các cực tăng trưởng, đáp ứng yêu cầu phát triển dài hạn.
- Tổ chức không gian phát triển gắn với hình thành hệ thống đô thị quốc gia tạo động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững; xây dựng mạng lưới đô thị xanh, thông minh, phân bổ hợp lý, bảo đảm khai thác được điều kiện đặc thù, lợi thế của từng vùng, miền; tăng cường kết nối đô thị và nông thôn.
- Tổ chức không gian phát triển quốc gia dựa trên sự gắn kết khu vực nội địa với không gian biển, tham gia các hành lang kinh tế quan trọng trong khu vực, phát triển kinh tế - xã hội các dải biên giới gắn với bảo vệ chủ quyền và bảo đảm quốc phòng, an ninh.
2.2. Mục tiêu:
a) Mục tiêu tổng quát
Kiến tạo một mô hình phân bổ không gian phát triển quốc gia hiệu quả, bền vững, hình thành được các vùng kinh tế động lực, các trung tâm kinh tế, đô thị chiến lược, mạng lưới kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, kết nối giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế cao, thúc đẩy thực hiện mục tiêu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2050 trở thành nước phát triển, thu nhập cao, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
b) Các mục tiêu cụ thể:
- Đến năm 2030
+ Hình thành rõ nét một số vùng động lực, có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, tăng trưởng cao, đóng góp lớn vào ngân sách; các hành lang kinh tế trọng điểm.
+Tập trung nguồn lực đầu tư hạ tầng các đô thị lớn; thúc đẩy phát triển hệ thống đô thị hài hoà, phù hợp với tiềm năng, lợi thế của từng vùng. Xây dựng được mạng lưới đô thị thông minh trung tâm cấp quốc gia và cấp vùng kết nối quốc tế và 3 - 5 đô thị có thương hiệu được công nhận tầm khu vực và quốc tế. Tăng cường kết nối giữa các đô thị trong nước và khu vực; gắn kết phát triển đô thị và nông thôn.
+ Hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, bao gồm các trục Bắc - Nam (QL 1A và đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, một số đoạn của đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Tây, một số đoạn của đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam), các trục Đông - Tây quan trọng, các hành lang kinh tế trọng điểm các vùng, các cảng cửa ngõ quốc tế kết hợp trung chuyển (Lạch Huyện, Cái Mép - Thị Vải), các cảng hàng không quốc tế lớn (Long Thành, Nội Bài). Hình thành hạ tầng số đồng bộ, hiện đại là hạ tầng thiết yếu phục vụ chính phủ số, kinh tế số, xã hội số.
+ Giữ tỷ lệ che phủ rừng ổn định; tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển, các khu bảo tồn thiên nhiên trên cạn; bảo vệ, phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng, nâng cao đa dạng sinh học.
+ Đến năm 2030, cơ bản đạt các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Đến năm 2050
+ Các vùng phát triển hài hoà, bền vững, phát huy tiềm năng, khai thác tốt nhất các thế mạnh về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên, vị trí địa chính trị, nguồn nhân lực, liên kết mạnh mẽ cùng phát triển.
+ Hệ thống đô thị liên kết thành mạng lưới đồng bộ, thống nhất, cân đối giữa các vùng, miền, có khả năng chống chịu, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ môi trường, kiến trúc tiêu biểu giàu bản sắc, xanh, hiện đại, thông minh. Xây dựng được ít nhất 5 đô thị đạt tầm cỡ quốc tế, giữ vai trò là đầu mối kết nối và phát triển với mạng lưới khu vực và quốc tế.
+ Hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; hoàn thành đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Tây, đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, các trục Đông - Tây quan trọng, các hành lang kinh tế trọng điểm các vùng, các cảng cửa ngõ quốc tế kết hợp trung chuyển, các cảng hàng không quốc tế lớn.
+ Tiếp tục giữ tỷ lệ che phủ rừng ổn định; tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển, các khu bảo tồn thiên nhiên trên cạn; nâng cao đa dạng sinh học. Đến năm 2050, môi trường Việt Nam có chất lượng tốt, trong lành và an toàn; xã hội hài hoà với thiên nhiên, phát triển hiệu quả theo hướng kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, cac-bon thấp, hướng tới mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0”.
2.3 Một số định hướng tổ chức không gian phát triển đất nước
Trong khi các nguồn lực dành cho phát triển có hạn, trong một giai đoạn nhất định cần ưu tiên, tập trung đầu tư cho một số lãnh thổ có điều kiện thuận lợi nhất về vị trí địa lý, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực và cơ sở vật chất kỹ thuật sẵn có để các lãnh thổ đó phát triển đi trước một bước, tạo động lực và làm đầu tàu lôi kéo các vùng khác cùng phát triển. Trong định hướng tổ chức không gian phát triển đất nước dự kiến tập trung hình thành và phát triển các hành lang kinh tế và vùng động lực.
a) Về phát triển các hành lang kinh tế
Tập trung hình thành và phát triển 2 hành lang kinh tế Bắc - Nam và các hành lang kinh tế Đông - Tây.
- Các hành lanh kinh tế Bắc - Nam
+ Hành lang chính: Hành lang kinh tế Bắc - Nam phía Đông
Hành lang kinh tế Bắc - Nam phía Đông gắn với đường cao tốc Bắc - Nam phía Đông và QL 1A từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Đây là hành lang có vị trí đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng và đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước, là hành lang kinh tế liên vùng, kết nối hầu hết các cực tăng trưởng trên phạm vi quốc gia.
Hỗ trợ Hành lang kinh tế Bắc - Nam phía Đông là dải ven biển gắn với đường ven biển từ Quảng Ninh đến Cà Mau.
+Hành lang phụ: Hành lang kinh tế Bắc - Nam phía Tây
Hành lang kinh tế Bắc - Nam phía Tây gắn với đường Hồ Chí Minh và cao tốc Bắc - Nam phía Tây từ Cao Bằng đến Kiên Giang, nhằm khai thác, phát triển các khu vực khó khăn ở phía Tây đất nước, gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh.
- Các hành lanh kinh tế Đông - Tây
Ưu tiên hình thành các hành lang kinh tế có các điều kiện thuận lợi sau:
+Có trục giao thông quan trọng, thường là đường cao tốc; gắn với các đầu mối giao thương quan trọng như cảng biển, cửa khẩu quốc tế, sân bay quốc tế...;
+Các địa phương trên hành lang có nhiều tiềm năng phát triển công nghiệp, dịch vụ, đô thị…
+ Ưu tiên các hành lang có khả năng liên kết với các hành lang kinh tế khu vực và quốc tế.
Ưu tiên phát triển các hành lang chính trên địa bàn miền Bắc, miền Trung và Nam Bộ, tham gia các hành lang kinh tế quốc tế trong khu vực, bao gồm:
+ Hành lang kinh tế Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng
+ Hành lanh kinh tế Đông - Tây (Lao Bảo - Đông Hà - Đà Nẵng)
+ Hành lang kinh tế Mộc Bài - Thành phố Hồ Chí Minh - Vũng Tàu.
Về các hành lang phụ trên các vùng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư bước đầu đề xuất các hành lang sau:
+ Hành lang kinh tế Sơn La - Hòa Bình - Hà Nội;
+ Hành lang kinh tế Cầu Treo - Vũng Áng;
+ Hành lang kinh tế Bờ Y - Pleiku - Quy Nhơn;
+ Hành lang kinh tế Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng;
+ Hành lang kinh tế Hà Tiên - Rạch Giá - Cà Mau.
- Về phát triển các vùng động lực
Hiện nay cả nước có 4 vùng kinh tế trọng điểm với quy mô khá lớn, gồm 24/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chiếm 27,5% diện tích, 53,1% dân số cả nước. Do quy mô các vùng kinh tế trọng điểm quá lớn, chưa có cơ chế chính sách ưu đãi vượt trội nên chưa thực sự trở thành các vùng động lực, nhiều địa phương thuộc các vùng kinh tế trọng điểm có trình độ phát triển dưới hoặc tương đương mức trung bình cả nước. Trên cơ sở các vùng kinh tế trọng điểm hiện nay, lựa chọn một số địa bàn có vị trí thuận lợi nhất, có sân bay quốc tế cửa ngõ và cảng biển cửa ngõ quốc tế kết hợp trung chuyển, có tiềm lực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao để hình thành các vùng động lực chính của quốc gia, cụ thể:
+ Trên cơ sở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ lựa chọn Tam giác Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh trở thành vùng động lực chính khu vực phía Bắc (Tam giác động lực phía Bắc).
+Trên cơ sỏ vùng kinh tế trọng điểm phía Nam lựa chọn Tứ giác Thành phố Hồ Chí Minh - Bình Dương - Đồng Nai - Bà Rịa - Vũng Tàu trở thành vùng động lực chính khu vực phía Nam (Tứ giác động lực phía Nam).
Trên cơ sở hai vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long lựa chọn địa bàn có điều kiện thuận lợi nhất, có cảng biển, sân bay quốc tế, khu kinh tế ven biển, tiềm năng phát triển mạnh công nghiệp, du lịch, dịch vụ để hình thành các vùng động lực phụ của quốc gia.
+ Trên cơ sở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung lựa chọn Khu vực ven biển Đà Nẵng - Quảng Ngãi trở thành vùng động lực miền Trung.
+ Trên cơ sở vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long lựa chọn Tam giác Cần Thơ - An Giang - Kiên Giang trở thành vùng động lực Đồng bằng sông Cửu Long.
3. Về định hướng phát triển và phân bố không gian các ngành, lĩnh vực
Đối với các ngành sản xuất, kinh doanh, ưu tiên thu hút đầu tư, nhất là các dự án quy mô lớn, công nghệ cao vào các vùng động lực, bố trí không gian công nghiệp theo hướng gắn với các hành lang kinh tế ưu tiên. Hình thành các trung tâm dịch vụ lớn mang tầm khu vực và thế giới về thương mại, du lịch, tài chính... tại các thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh và Cần Thơ..., gắn với phát triển các vùng động lực. Tăng cường kết nối các trung tâm dịch vụ lớn với các hành lang kinh tế, nhất là với các hành lang kinh tế khu vực. Hình thành các trung tâm logistics lớn tại Hải Phòng, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cần Thơ.
Đối với các lĩnh vực xã hội, ưu tiên đầu tư các cơ sở đào tạo, giáo dục nghề nghiệp tại các thành phố lớn, các vùng động lực để hình thành các cơ sở đào tạo đại học, giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao, tiếp cận trình độ các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Xây dựng mới các khu phức hợp y tế, một số bệnh viện hiện đại ngang tầm khu vực và quốc tế, các trung tâm y tế hiện đại gắn với phát triển du lịch nghỉ dưỡng, chăm sóc sức khỏe tại các vùng động lực. Xây dựng, hiện đại hoá một số trung tâm văn hóa, trung tâm hội chợ triển lãm quốc gia, khu liên hợp thể thao quốc gia... đạt tiêu chuẩn quốc tế ở các đô thị lớn tại các vùng động lực.
Đối với các ngành kết cấu hạ tầng, trên cơ sở đề xuất các hành lang kinh tế và vùng động lực nêu trên, tập trung các nguồn lực phát triển mạng lưới kết cấu hạ tầng để hỗ trợ hình thành các hành lang kinh tế và sớm hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại tại các vùng động lực. Hoàn thành xây dựng đường bộ cao tốc Bắc - Nam và các tuyến đường bộ cao tốc kết nối với các trung tâm kinh tế lớn, gắn với các vùng động lực như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ; các tuyến cao tốc gắn với hình thành các hành lang kinh tế Đông – Tây. Nâng cấp, xây dựng các cảng biển có quy mô lớn như cảng cửa ngõ có chức năng trung chuyển container quốc tế tại Lạch Huyện (Hải Phòng) và Cái Mép - Thị Vải (Bà Rịa - Vũng Tàu); cảng cửa ngõ vùng kinh tế trọng điểm miền Trung tại Đà Nẵng. Đầu tư xây dựng cảng hàng không quốc tế Long Thành trở thành một trong những trung tâm lớn của khu vực; nâng cấp CHK quốc tế cửa ngõ: Nội Bài, Chu Lai, Tân Sơn Nhất; các cảng hàng không quốc tế gắn với các vùng động lực như Vân Đồn, Cát Bi, Đà Nẵng, Cần Thơ, Phú Quốc.
4. Định hướng tổ chức không gian theo vùng, lãnh thổ.
Định hướng tổ chức không gian phát triển theo 6 vùng (Vùng Trung du và Miền núi phía Bắc,Vùng Đồng bằng sông Hồng, Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Vùng Tây Nguyên, Vùng Đông Nam Bộ, Vùng Đồng bằng sông Cửu Long). Đối với mỗi vùng xác định: vị trí, vai trò, chức năng của vùng đối với cả nước; các ngành, lĩnh vực ưu tiên phát triển; định hướng tổ chức không gian vùng (phát triển theo các tiểu vùng, hệ thống đô thị, hành lang kinh tế…), định hướng phát triển kết cấu hạ tầng trên địa bàn vùng. Định hướng bố trí không gian phát triển các vùng gắn với các hành lang kinh tế đi qua địa bàn vùng và kết nối với các hành lang kinh tế khu vực, quốc tế. Đối với các vùng Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long tập trung phát triển các vùng động lực.
Định hướng tổ chức không gian biển, phát triển hệ thống đô thị, nông thôn. Các định hướng phát triển vùng, không gian biển, hệ thống đô thị, nông thôn sẽ tiếp tục được cụ thể hóa trong quá trình xây dựng Quy hoạch tổng thể quốc gia