Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính:
Phải tìm giải pháp “đột phá trong đột phá” để phát triển nhanh, bền vững
Sáng 5.2, dưới sự điều hành của đồng chí Phạm Minh Chính- Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị (viết tắt là Nghị quyết 26) về phát triển KT-XH và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và xúc tiến đầu tư vùng đã dành nhiều thời gian để các đại biểu tham luận, đề ra các giải pháp thực hiện hiệu quả Nghị quyết 26, tạo động lực thúc đẩy KT-XH vùng phát triển đột phá.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị
Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh: Phát triển KT-XH cả nước nói chung, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung bộ nói riêng sâu rộng, toàn diện theo hướng độc lập, tự chủ, dựa vào phát triển nội lực là chính, là cơ bản, chiến lược, lâu dài và quyết định; ngoại lực là quan trọng, tạo đột phá phát triển. Riêng vùng Bắc Trung bộ, duyên hải Trung bộ có nội lực, bao gồm con người, thiên nhiên, truyền thống văn hóa lịch sử rất lớn. Đảng và Nhà nước cũng rất quan tâm đến đầu tư phát triển vùng. Ngoài 3 trụ cột chính nói trên, vùng Bắc Trung bộ còn có gì, tiềm năng, cơ hội phát triển như thế nào và vì sao vùng chưa phát triển hoặc phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Phải nhận diện đúng thực tế, đối chiếu so sánh với tiềm năng trên nhiều lĩnh vực để đưa ra các giải pháp phát triển.
Thủ tướng Chính phủ phân tích: Dân số của vùng rất lớn, chiếm khoảng 21% dân số cả nước; người dân có phẩm chất chịu thương, chịu khó, kiên cường, bất khuất, yêu nước nồng nàn và rất ham học, hiếu học, năng động, sáng tạo trên nhiều lĩnh vực. Khu vực này truyền thống văn hóa lịch sử rất đặc biệt, có “rừng vàng, biển bạc”, có không gian phát triển vận tải hàng không, cảng biển. Nói chung là vùng Bắc Trung bộ, duyên hải Trung bộ hội đủ các yếu tố để phát triển, nhưng thu nhập bình quân đầu người của vùng lại thấp hơn thu nhập bình quân của cả nước.
“Tôi mong muốn tại Hội nghị này, các đại biểu suy nghĩ, phân tích làm rõ vấn đề trên nói trên, từ đó xác định các giải pháp đột phá phát triển. Đột phá nào quan trọng nhất, tìm đột phá trong đột phá phát triển nhanh nhất, bền vững nhất để thực hiện”- Thủ tướng yêu cầu.
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan:
Ý chí vượt khó, nghị lực vươn lên là nguồn lực vô hình, mang tính quyết định
“Nguồn vốn văn hóa”, “nguồn vốn xã hội” gắn với ý chí vượt khó, nghị lực vươn lên, không ngại nghịch cảnh của đội ngũ lãnh đạo, cán bộ, người dân ở khúc ruột miền Trung, chính là nguồn lực vô hình, không có giới hạn, mang tính quyết định trong việc thực hiện mục tiêu 2030: “Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ là vùng phát triển năng động, nhanh và bền vững, mạnh về kinh tế biển”.
An cư là để người dân trong vùng sinh sống bình yên, bình an trước thiên tai khắc nghiệt, lạc nghiệp, để sinh kế gắn với kinh tế biển, với rừng, với nghề nông của người dân trong vùng ổn định, bền vững.
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan phát biểu tham luận
Trong bối cảnh diễn biến bão lũ ngày càng cực đoan, khó lường, khó dự báo, Bộ NN&PTNT sẽ tiếp tục phối hợp với Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng chống thiên tai, cùng các đối tác quốc tế, các tổ chức hoạt động cộng đồng tích cực triển khai các giải pháp căn cơ giúp nâng cao năng lực cộng đồng, vượt qua và phục hồi sau những khó khăn. Các dự án cộng đồng, như:Nhà thoát lũ, làng an toàn, sổ tay minh họa, hướng dẫn phương án ứng phó thiên tai,… sẽ được đánh giá hiệu quả, dần chuẩn hóa theo hướng chuyên nghiệp hơn.Công tác phòng chống thiên tai thời gian tới, sẽ thay đổi theo hướng quản lý, giảm thiểu rủi ro, chủ động thích ứng dựa vào năng lực cộng đồng, phát huy tri thức bản địa.
Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ có vị trí đặc biệt quan trọng trong Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển, tầm nhìn quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, trong thế kỷ của biển và đại dương. Để hiện thực hóa mục tiêu này, “con người là trung tâm trong mọi chiến lược phát triển” phải là quan điểm tiếp cận xuyên suốt. Ngư dân cần được đặt ở vị trí trung tâm trong tiến trình phát triển bền vững “tam ngư: Ngư nghiệp - ngư dân - ngư trường”.
Dù là khai thác, nuôi trồng hay bảo tồn biển, thì ngư dân luôn là lực lượng tham gia đông đảo nhất. Ngành thủy sản trong vùng từng bước chuyển đổi theo hướng đánh bắt có kiểm soát, giảm khai thác, tăng nuôi trồng. Dự thảo về kế hoạch hành động 180 ngày hành động chống khai thác IUU đang được lấy ý kiến, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đối với các khuyến nghị của Ủy ban châu Âu, Bộ NN&PTNT vừa tổ chức hội nghị triển khai đến các địa phương ven biển. Công tác truyền thông, phổ biến pháp luật hướng đến nâng cao nhận thức, chấp hành một cách tự nguyện, tự giác, thay cho những hành vi tránh né, đối phó...
Bên cạnh tổ chức lại khai thác hải sản, cơ cấu lại nghề, cơ cấu lại lao động cần phù hợp với điều kiện tự nhiên, tập quán và năng lực từng hộ gia đình. Các tàu dịch vụ nghề cá trên biển, các trạm dịch vụ hậu cần trên các đảo cần được nâng cao hiệu quả. Các trung tâm nghề cá tiếp tục được đầu tư nâng cấp. Các cảng cá sẽ được vận hành theo hướng đa chức năng, kết hợp du lịch, kiến tạo không gian cộng đồng cung cấp kiến thức về bảo tồn biển, đại dương, tập huấn kỹ năng nghề cá, kỹ năng sinh tồn, phổ biến quy định pháp luật. Không gian cộng đồng gần gũi, chia sẻ lợi ích giữa các bên, gắn kết với các tổ cộng đồng đồng quản lý, để mỗi thành viên sống và làm nghề có trách nhiệm với biển. Như, tại phường Ghềnh Ráng (TP Quy Nhơn), tổ đồng quản lý bảo vệ san hô dần đi vào ổn định và nề nếp, với đa dạng hoạt động thiết thực bảo vệ môi trường sinh thái biển, bảo vệ nguồn lợi thủy sản và tạo sinh kế mới, được chính quyền các địa phương và người dân đồng thuận, ủng hộ. Từ đây có thể mời gọi sự đồng hành của DN xã hội để bảo đảm hài hòa lợi ích, vì các giá trị chung ở hôm nay và cả mai sau.
Theo chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 26, nông nghiệp sẽ tiếp tục phát triển “theo hướng sinh thái, đặc hữu, có khả năng chống chịu cao với thời tiết cực đoan, thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu”. Do vậy, cần quán triệt “tư duy kinh tế nông nghiệp”, cần nhìn nền kinh tế theo cách tiếp cận đa dụng, đa chức năng, đa giá trị. Hồ chứa nước Đồng Mít không chỉ có chức năng thủy lợi mà có thể tích hợp du lịch trải nghiệm, nuôi trồng thủy sản, phát triển năng lượng mặt trời. Với cách nhìn như vậy, đất lâm nghiệp, khu bảo tồn, rừng ngập mặn ven biển, các lòng hồ đều có thể nuôi trồng dược liệu, thủy sản, du lịch, phát triển điện năng. Tư duy tích hợp sẽ tạo ra không gian phát triển tích hợp, không gian tích hợp tạo ra giá trị tích hợp. Bộ NN&PTNT sẽ sớm tổ chức các hội nghị chuyên đề, vừa tìm kiếm những sáng kiến mới, vừa chủ động sửa đổi, điều chỉnh những quy định đang là rào cản cho các địa phương.
“Với tinh thần rắn rỏi “từ trong gian khó càng ngời sáng hơn”, tôi tin chắc rằng, lãnh đạo và người dân các địa phương Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ hoàn toàn có thể hiện thực hóa tầm nhìn 2045 - “phát triển nhanh, bền vững, mạnh về kinh tế biển”.
Thứ trưởng Bộ TN&MT Trần Quý Kiên:
Phát triển kinh tế biển gắn bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu
Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ có vị trí chiến lược đặc biệt để phát triển KT-XH, đảm bảo quốc phòng an ninh; đặc biệt là kinh tế biển và an ninh biển đảo. Vùng này cũng có nhiều lợi thế để đón trước các xu thế phát triển của thời đại, như: Chuyển đổi xanh, giảm phát thải dựa trên khai thác tài nguyên gió với mật độ năng lượng khoảng 400 - 600 W/m2, năng lượng sóng 20 - 30 kW/m; đặc biệt là đón dòng vốn 15,5 tỷ USD mà các đối tác cam kết hỗ trợ Việt Nam phát triển năng lượng tái tạo, giúp Việt Nam hòa nhập với các “luật chơi mới” về tăng trưởng xanh toàn cầu; xây dựng kinh tế hướng biển với tiềm năng về hàng hải, du lịch, các nguồn tài nguyên, khoáng sản biển sâu, hải sản… dựa trên kinh tế biển xanh và quản trị biển, đại dương bền vững; kết nối mở cửa, hội nhập với quốc tế thông qua vành đai Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương (tuyến hàng hải thứ 2 thế giới) và tiểu vùng Mê Kông - ASEAN để thu hút nguồn lực đầu tư trong và ngoài nước, tạo động lực phát triển…
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan phát biểu tham luận
Bên cạnh thời cơ và thuận lợi, vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ đối diện nhiều khó khăn do điều kiện khí hậu khắc nghiệt, các loại hình thiên tai xảy ra, nguồn nước vừa thiếu vừa thừa do biến đổi khí hậu; xung đột về môi trường giữa phát triển các ngành du lịch, công nghiệp, khai thác và nuôi trồng thủy sản…
Để đưa vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ phát triển, Bộ TN&MT, cùng các bộ, ngành, các địa phương của vùng sẽ cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ. Đó là, tập trung phát triển nền kinh tế biển xanh, mở cửa hướng ra biển, hình thành các ngành kinh tế mũi nhọn như du lịch biển, hàng hải, năng lượng tái tạo, công nghệ sinh học biển… Tập trung các giải pháp bảo vệ nguồn nước, tăng khả năng trữ nước đảm bảo an ninh nguồn nước; chủ động từ xa, chủ động sớm các giải pháp ứng phó các rủi ro thiên tai ngày một gia tăng do biến đổi khí hậu; tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý tài nguyên vùng bờ biển, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, phát triển xanh của khu vực…
Bộ trưởng Bộ VH-TT&DL Nguyễn Văn Hùng:
Vùng có nhiều thế mạnh trong phát triển du lịch
Với đường bờ biển dài hơn 1.920 km, nhiều bãi biển đẹp, đảo ven bờ… tài nguyên du lịch biển, đảo là tiềm năng và thế mạnh đặc biệt của vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung. Nơi đây cũng sở hữu nhiều di sản thiên nhiên thế giới, vườn quốc gia, hệ sinh thái đầm, phá ven biển, khu dự trữ sinh quyển thế giới… Đó là chưa kể, tài nguyên du lịch nhân văn của vùng cũng phong phú, đặc sắc hấp dẫn với hệ thống di sản văn hóa giá trị gắn với lịch sử - văn hóa của đất nước, như: Nền văn hóa Chăm Pa, Sa Huỳnh; văn hóa cư dân vùng biển và gắn với lịch sử cách mạng kiên cường, vẻ vang của dân tộc; cuộc đời sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng hệ thống di sản văn hóa phi vật thể và giá trị văn hóa truyền thống của hơn 50 dân tộc anh em cùng chung sống trong vùng.
Bộ trưởng Bộ VH-TT&DL Nguyễn Văn Hùng phát biểu tham luận
Dựa trên tiềm năng, lợi thế của vùng, hoạt động du lịch biển đảo trong những năm qua chiếm khoảng 70% hoạt động của ngành du lịch Việt Nam. Tuy nhiên, kết quả này chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh to lớn của vùng. Thực tế cho thấy, du lịch biển, đảo, du lịch văn hóa, sinh thái là tiềm năng, thế mạnh nổi trội của vùng, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, chỉ số phát triển còn thấp, sản phẩm du lịch chưa đa dạng và hấp dẫn, dịch vụ du lịch còn thiếu, nhiều di sản văn hóa có giá trị chưa phát huy giá trị…
Để tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết 26, nhằm khai thác triệt để và tối đa tiềm năng, tiềm lực, lợi thế, thế mạnh vốn có của vùng trong phát triển du lịch, tiếp tục giữ vai trò là động lực cho phát triển kinh tế của địa phương và nhiều ngành kinh tế khác, tôi đề nghị lãnh đạo các địa phương, các hiệp hội du lịch, tổ chức, DN hoạt động trong lĩnh vực du lịch cần định hướng phát triển các sản phẩm dịch vụ du lịch dựa trên lợi thế của vùng, tạo sản phẩm, dịch vụ du lịch đặc trưng, đặc thù, khác biệt, có chất lượng đẳng cấp cao và tạo thương hiệu riêng theo hướng tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, du lịch thông minh. Phát triển du lịch gắn liền với việc đổi mới, sáng tạo và ứng dụng KHCN tiên tiến, gắn với công tác bảo vệ môi trường, phát huy truyền thống văn hóa, phát triển cộng đồng và bảo vệ quốc phòng, an ninh, giữ vững chủ quyền quốc gia. Định hướng khai thác thị trường nguồn của vùng, tập trung khai thác các thị trường khách quốc tế trọng điểm, gồm: Thị trường Tây Âu, Đông Âu, Đông Bắc Á, Asean…Với thị trường nội địa thì tập trung thu hút, khai thác các phân khúc thị trường theo nhu cầu sản phẩm (du lịch tham quan, nghỉ dưỡng biển đảo, du lịch sinh thái, tìm hiểu lịch sử, văn hóa cộng đồng…).
Để hiện thực hóa các định hướng phát triển này, tôi đề xuất các giải pháp, như: Xây dựng, ban hành chính sách, thể chế đủ mạnh kèm theo một cơ chế điều phối, liên kết hiệu quả, thực chất trong phát triển vùng; khẩn trương triển khai và hoàn thiện quy hoạch vùng, quy hoạch các tỉnh trong vùng, trong đó có nội dung về quy hoạch phát triển du lịch được tích hợp đảm bảo yêu cầu phát triển các địa phương trong vùng và của toàn vùng về các lĩnh vực (sản phẩm du lịch, thị trường khách, cơ sở vật chất kỹ thuật, DN và nguồn nhân lực du lịch…). Thực hiện mô hình tăng trưởng xanh, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, nhất là tài nguyên biển, đảo, giá trị văn hóa - lịch sử và đa dạng sinh học… Đẩy mạnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, hệ thống cơ sở lưu trú, vui chơi giải trí, công tác quản lý du lịch, xúc tiến, quảng bá du lịch hợp lý, hiệu quả.
Ông Herve Conan, Giám đốc Cơ quan Phát triển Pháp (AFD):
Tăng cường khả năng của các địa phương và các đô thị trong chống chịu và phục hồi với biến đổi khí hậu
Đối với Cơ quan Phát triển Pháp (AFD), miền Trung cũng là vùng quan trọng trong hoạt động tài trợ của Cơ quan qua sự hợp tác với 8 trên 14 tỉnh miền Trung thông qua dự án 4 tỉnh đang được triển khai (trong đó có 3 tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa) và 3 dự án khác đang trong giai đoạn chuẩn bị ở Ninh Thuận, Quảng Nam, Quảng Trị. Tôi rất vui khi thấy nhiều đối tác của chúng tôi tại các địa phương cũng tham gia hội nghị ngày hôm nay.
Ông Herve Conan, Giám đốc Cơ quan Phát triển Pháp phát biểu tại Hội nghị
Ở vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung, các hiện tượng khí hậu cực đoan ngày càng có tần suất thường xuyên hơn và cường độ cao hơn. Đây là một yếu tố gây rủi ro ngày càng tăng so với các vùng khác: Lũ lụt nhiều hơn, bão mạnh hơn và mưa lớn hơn. Những hoạt động của con người trong vùng này cũng khiến cho những tác động của biến đổi khí hậu trở nên nghiêm trọng hơn, ví dụ như xói lở ở khu vực bờ biển Hội An diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh là hệ quả của việc giảm khối lượng bùn cát trên dòng chảy về cửa biển do sự xây dựng nhiều đập ở thượng nguồn và do quá trình đô thị hóa quá gần đường bờ biển.
Như chúng ta đều đã biết, những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đối với nền kinh tế có thể khiến cản trở Việt Nam trong việc đạt được những mục tiêu phát triển đã đề ra như mức tăng trưởng 7% GDP hàng năm tới năm 2030 và trở thành một nước công nghiệp trong thời gian từ nay tới năm 2045. Báo cáo nghiên cứu AFD - GEMMES vào năm 2021 đã ghi nhận rằng nếu không có các biện pháp thích ứng, những thiệt hại trực tiếp do biến đổi khí hậu gây ra tương đương với sự sụt giảm chỉ số tăng trưởng GDP hàng năm ở mức trung bình là 1,8% trong trường hợp nhiệt độ tăng thêm 1°C so với giai đoạn tiền công nghiệp 1851 - 1900. Mức sụt giảm này lên tới 4,5% trong trường hợp nhiệt độ tăng 1,5°C, 6,7% trong trường hợp nhiệt độ tăng 2°C, và lên tới 10,8% trong trường hợp nhiệt độ tăng 3°C. Sự sụt giảm này còn nghiêm trọng hơn ở các vùng dễ bị tổn thương.
Tôi xin nhấn mạnh một chủ đề mang tính trọng tâm là tăng cường khả năng của các địa phương và các đô thị trong chống chịu và phục hồi với biến đổi khí hậu. Sự tăng cường khả năng chống chịu phục hồi này bao gồm ba định hướng và cũng là những định hướng cho hoạt động tài trợ hiện tại của AFD, cụ thể là (i) chống hạn hán, (ii) chống xói lở, và (iii) chống lũ lụt. Chúng tôi hiểu rằng các tỉnh ở trong vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ có nhiều mối lo ngại và quan tâm giống nhau trên phương diện quản lý tổng hợp nguồn tài nguyên nước và chống xói lở ở các khu vực ven biển. Tôi tin rằng có thể tìm ra những biện pháp hiệu quả nhờ những phương thức tiếp cận khác biệt và mới mẻ trong quy hoạch vùng và quản lý các lưu vực sông. Ngoài sự đầu tư cho các công trình phù hợp, việc xem xét lại những phương pháp hiện đang áp dụng trong quy hoạch vùng lãnh thổ và các tài nguyên để có những quy hoạch tổng thể đồng bộ hơn cũng rất cần thiết, đặc biệt là với vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung này vốn bị tác động lớn bởi biến đổi khí hậu.
Thích ứng với những tác động của biến đổi khí hậu là một quy trình phức tạp do cần có sự tham gia của nhiều tác nhân cũng như cần phối hợp được nhiều yếu tố xã hội, kinh tế, văn hóa và chính sách. Việc kết hợp những thời hạn khác nhau của các hành động, dung hòa những nhu cầu cấp bách tức thời với những mục tiêu dài hạn, có thể là một quy trình có nhiều thách thức. Ở vùng duyên hải Trung Bộ này, tiềm năng về năng lượng tái tạo (điện mặt trời và điện gió) và kinh tế biển (với 1 900 km đường bờ biển) là rất lớn. Điều đó cho phép chúng ta có niềm tin vào một sự chuyển dịch hiệu quả hướng đến một nền kinh tế tuần hoàn với mức phát thải carbon thấp và có khả năng chống chịu & phục hồi với biến đổi khí hậu.
Một đặc trưng khác của vùng này gắn với quy trình đô thị hóa với những thành phố/đô thị mới cỡ vừa và nhỏ rất năng động. Vẫn còn thời gian và còn khả năng để các tỉnh ở trong vùng này định hướng sự phát triển đô thị theo một khuôn khổ cho phép. Các tỉnh dự báo trước và quản lý sự tăng trưởng dân số của địa phương, đồng thời hạn chế mức phát thải carbon và cải thiện khả năng chống chịu & phục hồi với biến đổi khí hậu. Một lấn nữa, tôi xin nhấn mạnh rằng, các giải pháp đầu tư hạ tầng có thể sẽ không đủ để chúng ta đạt được mục tiêu tăng trưởng đô thị xanh và thích ứng với biến đổi khí hậu. Dựa trên những đối thoại giữa cơ quan chúng tôi với tỉnh Quảng Trị để xây một dự án phát triển đô thị có khả năng chống chịu & phục hồi với biến đổi khí hậu, tôi tin rằng cần phải có sự thay đổi trong phương thức đô thị hóa hiện nay; trong đó, tác động tích cực của một số công trình đầu tư bị hạn chế khi xây dựng những khu đô thị mới dẫn đến thu hẹp những hệ thống tiêu thoát nước tự nhiên khi ngập lụt. Cần phải tăng cường năng lực của cấp địa phương để giải quyết những thách thức do biến đổi khí hậu đặt ra. Chỉ có phương thức quy hoạch chủ động mới cho phép giảm sự bất bình đẳng xã hội và sự dễ tổn thương vì tác động của biến đổi khí hậu.
Những hội nghị quốc tế mới đây về khí hậu đã làm nổi bật vai trò quan trọng của các chính quyền địa phương bên cạnh các chính phủ và các tác nhân phi chính phủ trong phát triển và cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Điều đó, đòi hỏi phải có sự tăng cường cơ cấu nguồn nhân lực và tài chính của các chính quyền địa phương. Nhu cầu đầu tư vào các công trình hạ tầng đô thị bền vững là rất lớn: Ở cấp độ toàn cầu, nhu cầu này được ước tính lên tới 4 500 – 5 400 tỷ USD/năm trong vòng 15 năm tới để có thể đạt được những mục tiêu phát triển. Riêng với Việt Nam, báo cáo quốc gia về Khí hậu và Phát triển của Ngân hàng Thế giới ước tính rằng nhu cầu cho giai đoạn 2022 – 2040 lên tới khoảng 368 tỷ USD (tương đương 6,8% GDP/năm), trong đó chỉ riêng lộ trình thích ứng với biến đổi khí hậu đã chiếm khoảng 2/3 nhu cầu này (trung bình khoảng 14 tỷ USD/năm). Do vậy, cần phải có sự đóng góp của các nhà nước, các nhà tài trợ quốc tế và các quỹ dành cho các mục tiêu này.
Mối quan hệ đối tác giữa Bộ KH&ĐT và AFD vì sự phát triển của vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ sẽ là minh chứng cho những cam kết chung của hai bên vì sự phát triển vùng duyên hải miền Trung có khả năng chống chịu phục hồi với biến đổi khí hậu, và sẽ cho phép có một sự đối thoại thực sự về quá trình quy hoạch và xây dựng các dự án đầu tư và các chính sách trên cơ sở khí hậu. Các công trình hạ tầng phải cho phép tạo ra sự kết nối hiệu quả về địa lý cũng như các lĩnh vực và trên phương diện khí hậu (với những giải pháp dựa vào tự nhiên).
Để hỗ trợ tối ưu cho quỹ đạo phát triển kinh tế xã hội và thích ứng với biến đổi khí hậu của vùng, AFD xin đề xuất lập nên một cơ chế trao đổi để tạo thuận lợi cho sự đối thoại giữa các địa phương và giữa địa phương và các bộ ngành trung ương, trong khuôn khổ nguồn vốn quỹ WARM của Liên minh Châu Âu (quỹ Quản lý Tài nguyên nước và Tài nguyên Thiên nhiên) dành cho khoảng 10 tỉnh từ miền Bắc tới miền Nam. Cơ chế đối thoại này, với sự tham gia của Nhóm nhà tài trợ châu Âu (Team Europe) cùng với phía Việt Nam, sẽ dựa trên những bài học rút ra từ quá trình chuẩn bị và triển khai các dự án, qua đó có những đóng góp cho đối thoại về chính sách ngành để cải thiện khuôn khổ và các quy trình triển khai thực hiện ở cấp quốc gia.
Nhiệm vụ của AFD ở Việt Nam là hỗ trợ cho sự chuyển dịch của các địa phương và chuyển dịch sinh thái, phù hợp với những chiến lược phát triển kinh tế xã hội cấp vùng của Việt Nam. Hỗ trợ cho sự “chuyển dịch” của địa phương có nghĩa là phân tích những mặt mạnh và yếu của một địa phương cụ thể để:
• Cải thiện những điều kiện sống cho mọi người và khuyến khích an sinh xã hội: Công bằng trong tiếp cận những dịch vụ thiết yếu và chất lượng đô thị.
• Cải thiện tính kết nối và sức thu hút của các địa phương: Các thành phố vừa và nhỏ, cơ sở hạ tầng giao thông, cơ cấu các ngành nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm.
• Khuyến khích tăng cường khả năng chống chịu và phục hồi của các địa phương với biến đổi khí hậu: Phương thức canh tác nông nghiệp bền vững, chống sự xuống cấp của hệ sinh thái và sự suy giảm đa dạng sinh học, giảm sự phát thải carbon của các thành phố.
Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thắng:
Cần đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại
Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thắng phát biểu tham luận
Giao thông luôn đi trước mở đường, tạo động lực phát triển, nên cần tập trung huy động nguồn lực và ưu tiên đầu tư phát triển kết cầu hạ tầng giao thông (KCHTGT) đáp ứng nhu cầu phát triển. Các tỉnh cũng cần đổi mới tư duy, tầm nhìn, phát huy sự năng động, sáng tạo của các địa phương trong quy hoạch, quản lý, đầu tư phát triển hạ tầng vùng. Đẩy mạnh hợp tác, liên kết nội vùng, liên vùng trong quản lý, đầu tư phát triển KCHTGT để tạo không gian kinh tế thống nhất, khắc phục các điểm nghẽn, tăng năng lực cạnh tranh vùng; đầu tư kết cấu hạ tầng thích ứng với biến đổi khí hậu, hỗ trợ phát triển các ngành kinh tế biển, mở rộng quan hệ đối ngoại, nhất là với nước bạn Lào và các nước trong tiểu vùng sông Mê Kông.
Hai là, cần đẩy mạnh thực hiện phân cấp, phân quyền cho các địa phương trong vùng đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng giao thông do Trung ương quản lý trên địa bàn tỉnh/thành phố, đặc biệt là các công trình đường bộ, đường thủy nội địa, hàng không để phát huy tính chủ động của các địa phương trong huy động nguồn lực đầu tư phát triển hạ tầng giao thông.
Ba là, đa dạng nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, xây dựng cơ chế, chính sách đột phá để huy động vốn tư nhân, vốn hợp pháp khác tham gia đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông, trong đó ưu tiên các nguồn lực để đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng giao thông trọng điểm, có vai trò động lực, lan tỏa, liên kết vùng, kết nối các cảng biển và cửa khẩu quốc tế; kết hợp hiệu quả nguồn vốn Trung ương và địa phương với nguồn vốn huy động ngoài ngân sách.
Bốn là, các địa phương sớm hoàn thành quy hoạch tỉnh đảm bảo phù hợp, đồng bộ với các quy hoạch ngành quốc gia và quy hoạch vùng, khai thác có hiệu quả quỹ đất sau khi các dự án kết cấu hạ tầng giao thông được đầu tư; kiện toàn bộ máy đủ năng lực để làm cơ quan chủ quản và chủ đầu tư các dự án đường bộ cao tốc; chỉ đạo quyết liệt công tác GPMB và quản lý chặt chẽ hành lang an toàn giao thông.
Năm là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành hoạt động vận tải, nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải, logistics triển khai đồng bộ các giải pháp bảo đảm an toàn giao thông; ứng dụng công nghệ trong tổ chức, điều hành giao thông, giảm ùn tắc tại khu vực ra vào đầu mối vận tải lớn (cảng biển, cảng hàng không).
Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Bình Định Hồ Quốc Dũng:
Chính phủ sớm hoàn thành quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng và có chính sách đồng bộ, thống nhất cho cả vùng, tạo động lực phát triển
Vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ có nhiều thuận lợi, tiềm năng, lợi thế lớn. Đây là khu vực nằm ở địa bàn mang tính chiến lược, là cửa ngõ ra biển, là khu vực có bờ biển dài và đẹp nhất Việt Nam với hệ sinh thái biển đa dạng, phong phú, giá trị kinh tế cao. Khu vực này cũng đủ điều kiện để hình thành, phát triển các trung tâm đô thị hiện đại, du lịch biển quy mô lớn hiện đại; có nhiều sân bay, cảng biển lớn của cả nước, thuận lợi về giao thông, vận tải, phát triển sâu rộng, hội nhập với thế giới. Ngoài ra, vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ có nhiều di tích, di sản văn hóa, lịch sử giá trị; con người chịu thương, chịu khó, kiên cường bất khuất, năng động sáng tạo và khát vọng vươn lên. Đây là tài sản vô giá của hiện tại và tương lai của cả vùng, là tiền đề quan trọng để phát triển.
Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Bình Định Hồ Quốc Dũng phát biểu tham luận
Tuy nhiên, vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ lại đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Đó là hạn chế về quy mô thị trường và lưu thông hàng hóa; địa hình trải dài, nhiều đồi núi, đèo dốc, đi lại, vận chuyển hàng hóa khó khăn. Một bất lợi nữa là xuất phát điểm của các tỉnh trong vùng thấp, việc tích lũy, đầu tư nhỏ, lại thường xuyên chịu tác động thiên tai, bão lũ, nên việc quy hoạch không gian, huy động nguồn lực, bố trí nguồn lực cho đầu tư phát triển vùng rất hạn chế. Dù nguồn lực, nguồn vốn đầu tư những năm gần đây đã nâng lên, nhưng chủ yếu ở khu vực phía Đông của các tỉnh; khu vực phía Tây còn khó khăn, ảnh hưởng đến sự phát triển của các tỉnh và của cả vùng. Việc liên kết, phát huy năng lực cạnh tranh trong vùng hạn chế; các DN trong vùng ít, quy mô nhỏ, chưa có nhiều sản phẩm mang thương hiệu quốc gia, quốc tế; tỷ lệ lao động đáp ứng nhu cầu DN còn thiếu, đặc biệt là lao động có tay nghề cao…
Từ việc nhận diện thuận lợi, tiềm năng, lợi thế phát triển; khó khăn thách thức của vùng, tại Hội nghị này, Bình Định kiến nghị, đề xuất một số vấn đề chính liên quan đến phát triển vùng.
Vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ có bờ biển dài, tài nguyên khoáng sản phong phú, đa dạng, nền văn hóa đặc sắc… Để tạo động lực thúc đẩy liên kết, phát triển vùng, khai thác và phát huy hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của vùng cho phát triển, đề nghị Trung ương quan tâm sớm ban hành quy hoạch vùng; đồng thời, ban hành cơ chế, chính sách đặc thù thúc đẩy liên kết phát triển trong nội vùng, liên vùng. Đặc biệt là các chính sách đầu tư cho hạ tầng khai thác, nuôi trồng thủy, hải sản phục vụ cho quá trình đẩy mạnh phát triển kinh tế biển để các địa phương chủ động xây dựng kế hoạch, lộ trình thực hiện, sớm cụ thể hóa các mục tiêu Nghị quyết đã đề ra. Cùng với việc đẩy nhanh tiến độ đầu tư các tuyến giao thông theo trục Bắc - Nam như tuyến đường bộ ven biển, đường bộ cao tốc, đề nghị Trung ương quan tâm, sớm đầu tư các trục giao thông theo hướng Đông - Tây, hình thành các hành lang kinh tế Đông - Tây để kết nối với các tỉnh Tây Nguyên nhằm phát huy lợi thế là cửa ngõ hướng ra biển của các tỉnh trong vùng.
TS. Trần Du Lịch:
Vùng này tiềm năng còn lớn, dư địa còn lớn
Làm sao để vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ trong thời gian nào đó trở thành vùng phát triển, chứ không phải vùng nghèo. Tôi thấy rằng nếu tất cả các địa phương của Vùng nắm bắt cơ hội Nghị quyết 26-NQ/TW và triển khai theo 3 bước đột phá mà Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính gợi ý thì giai đoạn từ nay đến năm 2026 chính là giai đoạn tăng tốc. Đây là giai đoạn chuẩn bị thể chế, hạ tầng, nguồn nhân lực. Trong giai đoạn từ năm 2026 trở đi, Vùng này sẽ trở thành vùng phát triển.
TS Trần Du Lịch - Thành viên Hội đồng tư vấn Chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia phát biểu tham luận
Muốn đột phá phát triển, chúng ta phải gỡ vướng về thể chế, mong Chính phủ mở rộng cơ chế, phân cấp, phân quyền, tăng tự chủ địa phương; các bộ, ngành, địa phương tập trung nắm chắc quy hoạch, ban hành quy định một cách minh bạch và kiểm tra, giám sát, xử lý sai phạm, tăng trách nhiệm của địa phương lên.
Về cơ chế huy động vốn, tôi muốn nói tới nguồn vốn Nhà nước cần tạo cơ chế thông thoáng, huy động vốn an toàn nhất. Tôi lấy ví dụ, như quá trình phát triển giao thông, đô thị hóa là “con gà đẻ trứng vàng”, như vậy, quỹ đất ấy nếu khai thác nguồn thu tốt sẽ đủ sức luân chuyển phát triển,và dư sức để làm hạ tầng giao thông.
Chúng ta chia 3 tiểu vùng, thì tiểu vùng giữa phải gắn với Tây Nguyên tạo một mô hình phát triển giữa các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên gắn với Gia Lai, Kon Tum ở phía Nam, còn phía Đông gắn Đắk Lắk, Đắk Nông. Mô hình này tạo một thế phát triển giữa các tỉnh Duyên hải Trung bộ. Tôi kiến nghị Thủ tướng Chính phủ sớm ban hành cơ chế về một cơ quan hoạt động tại tiểu vùng này, cũng như cơ chế cho tiểu vùng này hoạt động.
Vấn đề tương lai vùng này đi sau, theo quan điểm của tôi, muốn phát triển bền vững phải tập trung phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, kinh tế số… Tôi đề xuất vùng phía Tây miền Trung trồng rừng gỗ lớn, lấy gỗ nguyên liệu để phát triển ngành gỗ, muốn làm được như vậy phải xây dựng nguồn tín dụng tiêu dùng rẻ để hỗ trợ người dân phát triển trồng rừng nguyên liệu, xây dựng cơ chế bảo hiểm rừng trồng… Trong quy hoạch, tôi đề nghị hiện nay trong các ngành công nghiệp phải quy hoạch phù hợp với địa phương, còn lại phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo; công nghiệp xanh để giải quyết bài toán môi trường, hướng tới ngành công nghiệp chế tạo xanh.