Triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023, Bình Định gặp những thuận lợi, khó khăn thách thức đan xen nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn. Tình hình thế giới tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, tăng trưởng toàn cầu giảm tốc do chính sách thắt chặt tiền tệ, thị trường tài chính bấp bênh, thương mại toàn cầu suy giảm, cuộc xung đột Nga - Ukraine tiếp tục đè nặng lên các hoạt động kinh tế... Trong nước, mặc dù kinh tế tiếp tục duy trì đà phục hồi, môi trường đầu tư kinh doanh cải thiện góp phần tích cực cho phục hồi, nhưng doanh nghiệp vẫn còn gặp khó khăn, thách thức về thị trường tiêu thụ và vốn, chi phí sản xuất và giá cả sản phẩm đầu ra đều tăng, tình trạng thiếu điện trong những tháng nắng nóng kéo dài…
Trong bối cảnh đó, UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo, điều hành triển khai kế hoạch thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm theo Nghị Quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ về những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023; ban hành Quyết định số 19/QĐ-UBND ngày 04/01/2023 giao chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và giải pháp chủ yếu, nhiệm vụ cụ thể thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023 trên địa bàn tỉnh và Văn bản số 20/UBND-TH ngày 03/01/2023 thông báo một số chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2023 đối với các huyện, thị xã, thành phố; đây là lần đầu tiên UBND tỉnh ban hành văn bản giao chỉ tiêu cụ thể, nhằm định hướng nhiệm vụ cho cả năm 2023; tổ chức Hội nghị toàn tỉnh triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước năm 2023 và ký giao ước thi đua hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra. Bên cạnh đó, đã chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương triển khai thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, nhờ đó tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh tiếp tục có nhiều dấu hiệu khởi sắc và đạt nhiều kết quả tích cực, khá toàn diện trên các lĩnh vực.
Kết quả thực hiện 19 chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu năm 2023 Hội đồng nhân dân tỉnh giao, đạt được cụ thể như sau:
STT |
Chỉ tiêu |
Đơn vị |
Kế hoạch năm 2023 |
Thực hiện năm 2023 |
|
|
|
1 |
Tốc độ tăng GRDP |
% |
7 - 7,5 |
7,61 |
|
|
Trong đó: |
|
|
|
|
|
- Nông, lâm, thuỷ sản |
% |
3,0 - 3,2 |
3,17 |
|
|
- Công nghiệp và xây dựng |
% |
9,0 - 9,5 |
10,81 |
|
|
+ Công nghiệp |
% |
9,5 - 9,7 |
6,82 |
|
|
+ Xây dựng |
% |
8,0 - 9,1 |
18,74 |
|
|
- Dịch vụ |
% |
7,9 - 8,7 |
8,33 |
|
|
- Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm |
% |
9 |
5,77 |
|
|
- GRDP bình quân đầu người |
Triệu đồng |
74,9 - 75,2 |
78,19 |
|
2 |
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) |
% |
7,5 - 7,7 |
3,5 |
|
3 |
Kim ngạch xuất khẩu |
Triệu USD |
1.600 |
1.600 |
|
4 |
Tổng thu ngân sách trên địa bàn |
Tỷ đồng |
13.650 |
12.761,697 |
|
|
Trong đó: Thu nội địa |
Tỷ đồng |
12.558,5 |
12.132,26 |
|
5 |
Tốc độ tăng Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội |
% |
10 |
15,5 |
|
6 |
Duy trì mức sinh thay thế bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có từ 2,0 đến 2,2 con |
|
Duy trì |
Duy trì |
|
7 |
Tạo việc làm mới |
Người |
28.500 |
32.029 |
|
8 |
Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, bồi dưỡng nghề |
% |
62 |
62,17 |
|
9 |
Giảm tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí mới |
% |
1,8 |
2,53 |
|
10 |
Tỷ lệ người lao động tham gia bảo hiểm xã hội |
% |
18,21 |
18,23 |
|
11 |
Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế |
% |
96,05 |
96,07 |
|
12 |
Tỷ lệ trạm y tế có bác sỹ |
% |
100 |
100 |
|
13 |
Tỷ lệ xã đạt chuẩn quốc gia về y tế |
% |
100 |
100 |
|
14 |
Số giường bệnh kế hoạch trên 1 vạn dân |
Giường |
35,5 |
36 |
|
15 |
Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể nhẹ cân |
% |
≤ 7,3 |
7,19 |
|
16 |
Tỷ lệ che phủ rừng |
% |
57,3 |
57,3 |
|
17 |
Tỷ lệ dân cư nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh |
% |
100 |
100 |
|
|
Trong đó: Tỷ lệ sử dụng nước sạch |
% |
33 |
34,1 |
|
18 |
Tỷ lệ dân cư đô thị sử dụng nước sạch |
% |
85,07 |
86,01 |
|
19 |
Tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị được thu gom |
% |
85 |
85,8 |
|
I. VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Về sản xuất nông, lâm, thủy sản, quản lý tài nguyên, môi trường
Về trồng trọt: Công tác chuẩn bị sản xuất, phòng chống dịch bệnh và chỉ đạo sản xuất được thực hiện tốt. Ngành Nông nghiệp đã đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ phù hợp với điều kiện, lợi thế của địa phương và nhu cầu thị trường; thích ứng với biến đổi khí hậu gắn với việc triển khai thực hiện đề án chuyển đổi cây trồng trên đất sản xuất 3 vụ lúa/năm sang cây trồng khác có hiệu quả hơn.
Diện tích gieo trồng cây hàng ước đạt 154.274,6 ha, tăng 0,2% (+378,4 ha) so với cùng kỳ. Trong đó, tổng diện tích lúa ước đạt 92.757 ha, giảm 1,8% (-1.746,9 ha) so với năm 2022: vụ Đông Xuân đạt 46.881,6 ha, giảm 1,5% (-722 ha); vụ Hè Thu đạt 41.545,4 ha, giảm 2,6% (-1.103,8 ha); vụ Mùa đạt 4.330 ha, tăng 1,9% (+78,9 ha) so với cùng kỳ. Tổng sản lượng lúa cả năm 2023 ước đạt 638.840,3 tấn, tăng 1,1%; năng suất lúa ước đạt 68,9 tạ/ha, tăng 2 tạ/ha (tăng 3%) so với cùng kỳ.
Về chuyển đổi cơ cấu cây trồng: Tổng diện tích chuyển đổi cơ cấu cây trồng đạt 6.825 ha (vụ Đông Xuân 2.778 ha, vụ Hè Thu 3.407 ha, vụ Mùa 640 ha), vượt 158,2% so kế hoạch năm, cụ thể: Chuyển đổi trên đất lúa 4.538 ha, sang các cây trồng như: Rau màu 1.401 ha, lạc 1.431 ha, mè 503 ha, ngô 612 ha, cỏ chăn nuôi 534 ha, đậu đỗ 57 ha; chuyển đổi trên đất trồng sắn 2.222 ha , sang các cây trồng như: Lạc 1.594 ha, mè 317 ha, rau màu 168 ha, cỏ chăn nuôi 8 ha, ngô 109 ha, đậu đỗ 8 ha; chuyển đổi trên đất trồng mía 65,4 ha , sang các cây trồng như: Ngô 15 ha, lạc 25 ha, rau màu 8 ha, mè 2 ha, cỏ chăn nuôi 1 ha, đậu đỗ 15 ha.
Về chăn nuôi: Tiếp tục đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, nhất là chăn nuôi quy mô trang trại, ứng dụng công nghệ cao, chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học; phát triển chăn nuôi nông hộ phù hợp, đảm bảo công tác phòng ngừa, kiểm soát dịch bệnh.
Các ngành chức năng tiếp tục kiểm tra đôn đốc công tác phòng chống dịch bệnh ở các địa phương; phát hiện bệnh kịp thời, tăng cường giám sát dịch bệnh động vật; hướng dẫn nông dân thực hiện các biện pháp phát triển chăn nuôi, chăn nuôi an toàn sinh học giảm thiểu dịch bệnh; tiếp tục triển khai thực hiện Đề án phát triển chăn nuôi bò thịt chất lượng cao giai đoạn 2021-2025; triển khai mô hình gà thả đồi trên địa bàn huyện Tây Sơn và Hoài Ân. Đã tạo điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tiến độ Trung tâm Giết mổ gia súc, gia cầm và Chế biến thực phẩm San Hà Bình Định (huyện Phù Cát), Nhà máy Chế biến sâu nông sản của Công ty Cổ phần Vinanutrifood (huyện Tây Sơn),...
Công tác phát triển tái đàn vật nuôi đã được đẩy mạnh ngay từ đầu năm. Số lượng đàn vật nuôi chủ lực và sản lượng thịt hơi xuất chuồng đều tăng so với năm 2022: đàn bò đạt 308.626 con, tăng 1,1% (+3.235 con); đàn lợn (không kể lợn con chưa tách mẹ) đạt 686.236 con, tăng 4,8% (+31.141 con); đàn gia cầm 10.065 nghìn con, tăng 5,3% (+508,2 nghìn con), trong đó đàn gà 8.485,6 nghìn con, tăng 8,2% (+640,4 nghìn con).
Sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng ước đạt 38.247,5 tấn, tăng 4% (+1.483,8 tấn); sản lượng sữa đạt 11.566,8 tấn, giảm 1,8% (-206,6 tấn). Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng ước đạt 137.663 tấn, tăng 5,7% (+7.456 tấn). Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng ước đạt 28.381,1 tấn, tăng 5,4% (+1.441,7 tấn); trong đó, thịt gà hơi xuất chuồng ước đạt 24.190,8 tấn, tăng 11,6% (+2.518,6 tấn).
Về lâm nghiệp: Đã chỉ đạo triển khai thực hiện tốt các dự án trồng rừng, diện tích rừng trồng tập trung là 8.780 ha, đạt 100% kế hoạch; trong đó, chuyển hóa rừng trồng cây gỗ lớn là 3.020 ha. Tổng diện tích trồng rừng gỗ lớn đến nay đạt 9.882 ha. Sản xuất cây giống lâm nghiệp ước đạt 200 triệu cây, đạt 100% kế hoạch. Sản lượng gỗ khai thác ước đạt 1.752.071 m3, đạt 160,6% kế hoạch, tăng 10% so với cùng kỳ. Trong năm, đã xảy ra 06 vụ cháy rừng, diện tích 23,799 ha; tăng 06 vụ so với năm 2022. Tỷ lệ che phủ rừng ước đạt 57,3%; đạt 100% kế hoạch năm.
Về thủy sản: Sản lượng khai thác và nuôi trồng thuỷ sản đều tăng so với cùng kỳ 2022; trong đó: Sản lượng khai thác thủy sản ước đạt 273.193,1 tấn, tăng 3,2% so với cùng kỳ; sản lượng nuôi trồng thủy sản ước đạt 13.406,9 tấn, tăng 1,3%. Các mô hình nuôi trồng thủy sản đạt hiệu quả kinh tế cao được khuyến khích nhân rộng tại các địa phương ven biển.
Công tác tuần tra, kiểm soát bảo vệ nguồn lợi thủy sản tại các khu vực trọng điểm vẫn được duy trì thường xuyên, liên tục, hiệu quả. Công tác khắc phục cảnh báo của Ủy ban châu Âu về khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định (IUU) tiếp tục triển khai thực hiện. UBND tỉnh đã làm việc với Đoàn Thanh tra của Ủy ban châu Âu lần thứ 4 (từ ngày 12/10 - 14/10/2023) với quyết tâm gỡ cảnh báo “Thẻ vàng”. Qua kết quả làm việc, Đoàn thanh tra của EC đánh giá cao những nỗ lực của tỉnh về chống khai thác IUU.
Công tác hỗ trợ ngư dân khai thác hải sản ở vùng biển xa theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP của Chính phủ và Quyết định số 48/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ tiếp tục được triển khai, từ đầu năm đến nay, các ngành chức năng đã phê duyệt hỗ trợ 4.729 hồ sơ với số tiền hơn 380 tỷ đồng. Đã xây dựng và triển khai Quy chế phối hợp quản lý tàu cá riêng với tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tỉnh Bình Thuận và Quy chế phối hợp chung với 10 tỉnh miền Trung (từ Thanh Hóa đến Khánh Hòa); tổ chức Lễ phát động thi đua cao điểm “180 ngày hành động” thực hiện các giải pháp chống khai thác IUU;…
Công tác xây dựng nông thôn mới: Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới tiếp tục được quan tâm chỉ đạo thực hiện; các ngành, các địa phương tập trung triển khai thực hiện các tiêu chí ở các xã đăng ký đạt chuẩn nông thôn mới năm 2023 củng cố và nâng cao chất lượng các xã đã được công nhận đạt chuẩn trên địa bàn. Đến nay, toàn tỉnh có 85/111 xã đạt chuẩn nông thôn mới, đạt tỷ lệ 76,58%; có 17/85 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, đạt tỷ lệ 20%; có 05/11 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ nông thôn mới (đạt tỷ lệ 45,45%). Ước kết quả thực hiện chỉ tiêu Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới năm 2023: Có 03 xã đạt chuẩn nông thôn mới; 07 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 01 xã nông thôn mới kiểu mẫu; 02 huyện Tây Sơn, Phù Mỹ đạt chuẩn nông thôn mới.
Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) tiếp tục được triển khai đến các doanh nghiệp, cơ sở, hộ sản xuất... Toàn tỉnh có 354 sản phẩm được UBND tỉnh công nhận đạt tiêu chuẩn OCOP cấp tỉnh; trong đó: 49 sản phẩm đạt hạng 4 sao, 305 sản phẩm đạt hạng 3 sao. Đã triển khai phương án sản xuất thử nghiệm sản phẩm chè Tiến vua tại xã An Toàn, huyện An Lão.
Công tác quản lý đất đai, tài nguyên khoáng sản và bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh tiếp tục được tăng cường. UBND tỉnh đã chỉ đạo các sở, ngành, địa phương tăng cường công tác quản lý tài nguyên khoáng sản (đất, đá, cát…), kiểm tra, kịp thời xử lý nghiêm các trường hợp khai thác đất, đá, cát… trái phép hoặc không đúng quy định gây lãng phí tài nguyên, thất thu ngân sách, ô nhiễm môi trường.
UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ phương án xử lý vấn đề môi trường trên địa bàn tỉnh, nhất là trong vấn đề thu gom, vận chuyển, xử lý rác, chất thải, nước thải cả trong sản xuất và sinh hoạt; nâng cao chất lượng công tác quản lý đất đai, tài nguyên khoáng sản; đẩy mạnh thực hiện công tác chuyển đổi số trong quản lý đất đai; kiểm tra, xử lý kiên quyết các vụ vi phạm về đất đai, tài nguyên khoáng sản, rừng và đất rừng. Đã tổ chức 02 lớp tập huấn về công tác bảo vệ môi trường với hơn 300 cán bộ làm công tác quản lý môi trường cấp huyện, xã, các hội đoàn thể và một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Ngoài ra tiếp tục triển khai mô hình phân loại, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn tại một số địa phương trên địa bàn tỉnh.
2. Về sản xuất công nghiệp - xây dựng
- Về sản xuất công nghiệp: Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục gặp nhiều khó khăn, nhưng với các biện pháp đồng bộ được triển khai từ Trung ương và tỉnh, hoạt động sản xuất công nghiệp trong năm vẫn duy trì sự tăng trưởng. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) trên địa bàn tỉnh ước tăng 3,5% so với cùng kỳ. Trong đó, công nghiệp khai khoáng tăng 22,7%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,76%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện tăng 1,35%; cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải tăng 15,16%.
Khu kinh tế Nhơn Hội và các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục đẩy mạnh thực hiện công tác bồi thường, GPMB, bố trí tái định cư và xây dựng hạ tầng kỹ thuật để phục vụ thu hút đầu tư theo quy hoạch. UBND tỉnh tập trung đôn đốc các đơn vị liên quan khẩn trương đẩy nhanh tiến độ xây dựng, sớm hoàn thành đưa vào khai thác, vận hành các dự án điện năng lượng tái tạo, công nghiệp,... góp phần thúc đẩy sản xuất công nghiệp của tỉnh tăng trưởng trong thời gian đến. Đến nay, một số dự án trọng điểm đã hoàn thành đưa vào hoạt động như: Nhà máy Thủy điện Đồng Mít; Nhà máy sản xuất dược phẩm Bidiphar công nghệ cao; Nhà máy sản xuất, kinh doanh dược phẩm, thực phẩm chức năng, mỹ phẩm và công nghệ sinh học; Nhà máy điện mặt trời Phù Mỹ 1 (giai đoạn 2); Nhà máy điện mặt trời Phù Mỹ 3 (giai đoạn 2); Nhà máy điện gió Nhơn Hội 2; Mở rộng Nhà máy may của Công ty TNHH Delta Galil Việt Nam; Nhà máy chế biến gỗ nội - ngoại thất cao cấp Thiên Bắc Nhơn Hội; Nhà máy chế biến gỗ, nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học rắn Hoài Nhơn; Nhà máy sản xuất đồ nội ngoại thất từ gỗ và kim loại đan nhựa giả mây; đặc biệt, đã khánh thành Nhà máy sản xuất nhũ và màng mỏng công nghệ cao của Tập đoàn Kurz.
Đối với hoạt động các cụm công nghiệp; năm 2023, đã thu hút 06 doanh nghiệp (Công ty TNHH Thịnh Tiến, Công ty TNHH Tân Lập, Công ty TNHH Thiên Kim Bình Định, Công ty TNHH MTV Đầu tư và phát triển kho bãi Nhơn Tân, Công ty TNHH Thiên Hưng My Thọ, Công ty TNHH Đầu tư Hạ tầng Kamado) làm chủ đầu tư đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật 07 CCN (Bình An, Đệ Đức - Hoài Tân, Hoài Hương, Tân Tường An, Bình Tân, Gò Cầy, Bình Nghi) với diện tích 240,4 ha. Tính đến nay, có 15 doanh nghiệp làm chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật 19 cụm công nghiệp với diện tích 652,9 ha.
Đến nay, có 47/60 CCN đã và đang thực hiện công tác bồi thường, GPMB; trong đó, có 17/46 CCN đã hoàn thành bồi thường, GPMB đạt 100% diện tích; có 14/47 CCN đã hoàn thành trên 50% diện tích; việc triển khai bồi thường, GPMB của các CCN chủ yếu theo nhu cầu thuê đất của nhà đầu tư. Tỷ lệ lấp đầy các cụm công nghiệp đi vào hoạt động đạt 62,5% (đã thu hút được 430 dự án đăng ký đầu tư, bình quân 1,7 ha/dự án); tổng vốn đầu tư của các dự án trong các CCN 15.690,8 tỷ đồng, vốn thực hiện 7.962,8 tỷ đồng, đạt 50,7% với suất đầu tư bình quân 36,5 tỷ đồng/dự án... hoạt động các CCN phù hợp với mục tiêu đầu tư xây dựng CCN.
Các chương trình khuyến công, tiếp tục được triển khai thực hiện; cơ quan có thẩm quyền phê duyệt 39 chương trình, đề án khuyến công với tổng kinh phí hỗ trợ 5,4 tỷ đồng. Hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp và làng nghề tiếp tục phát triển ổn định, đã tạo ra khối lượng hàng hóa đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của đại bộ phận người dân, nhất là ở khu vực nông thôn, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn.
- Về xây dựng: UBND tỉnh đã tổ chức thành công các Hội nghị “Nâng cao chất lượng các công trình xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh” và “Quán triệt công tác quản lý trật tự đô thị, trật tự xây dựng; chống lấn, chiếm đất đai, xây dựng trái phép trên địa bàn tỉnh”. Ngoài ra, ngành xây dựng đã triển khai các kế hoạch thực hiện các giải pháp đột phá để nâng cao tỷ lệ dân số đô thị được cấp nước sạch từ hệ thống cấp nước tập trung và nâng cao tỷ lệ nước thải đô thị được thu gom, xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định đến năm 2025; công tác quy hoạch, chỉnh trang đô thị, xây dựng các khu dân cư, nhà ở xã hội tiếp tục được quan tâm thực hiện.
Bên cạnh đó chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ GPMB, thi công các công trình, dự án: đường cao tốc Bắc - Nam phía Đông, đoạn qua địa bàn tỉnh; đường ven biển (các đoạn còn lại); các dự án tại Khu đô thị Khoa học và Giáo dục Quy Hòa.
3. Về thương mại, dịch vụ, tài chính
Hoạt động thương mại, dịch vụ tiếp tục khởi sắc với nhiều hoạt động trong lĩnh vực du lịch được khôi phục, nhiều chương trình kết nối cung cầu, giao thương được tổ chức,..đã tác động tích cực đến thị trường hàng hóa. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ năm 2023 ước đạt 103.102,5 tỷ đồng, đạt 97,02% kế hoạch năm (kế hoạch năm 2023 là 106.264 tỷ đồng), tăng 15,1% so với cùng kỳ.
Công tác tổ chức các chương trình khuyến mại, giảm giá, đưa hàng Việt về nông thôn, góp phần bình ổn giá cả thị trường, kích cầu tiêu dùng tại các địa phương luôn được chú ý tăng cường. Thương mại miền núi luôn được chú ý quan tâm, các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu cho đồng bào được tổ chức phục vụ kịp thời. Công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát thị trường, chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, kém chất lượng, xâm phạm sở hữu trí tuệ được quan tâm triển khai thường xuyên, góp phần bình ổn thị trường, bảo vệ sản xuất và người tiêu dùng.
Đối với hoạt động ngoại thương, kinh tế thế giới trong năm 2023 phục hồi chậm, áp lực lạm phát tuy đã hạ nhiệt nhưng còn ở mức cao, nhu cầu tiêu dùng và các hoạt động kinh tế tiếp tục suy giảm, chính sách tiền tệ thắt chặt tiếp tục tác động tới doanh nghiệp và các hoạt động kinh tế, tiêu dùng. Bối cảnh trên đã tác động đến tình hình xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh, gây khó khăn trong việc tìm kiếm đơn hàng và duy trì thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu.
Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2023 ước đạt 1.600 triệu USD (đạt 100% kế hoạch năm), giảm 2,8% so với cùng kỳ. Một số mặt hàng tăng cao so với cùng kỳ như: Gỗ tăng 18,5%; hàng dệt may tăng 12,7%; gạo tăng 58,1%. Trong khi đó hàng thủy sản giảm 24,2%; sản phẩm gỗ giảm 25,9%... Kim ngạch nhập khẩu năm 2023 ước đạt 435 triệu USD, giảm 10,2% so với cùng kỳ.
Về du lịch: Trong năm, UBND tỉnh đã tổ chức nhiều chương trình, lễ hội quảng bá hình ảnh du lịch, quê hương, con người Bình Định đến với các du khách, cộng đồng trong nước, quốc tế, như: Lễ hội du lịch Bình Định năm 2023 với chủ đề: “Quy Nhơn - Thiên đường biển - Rực rỡ sắc màu”; Lễ hội Khinh khí cầu; Vòng Chung kết Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2023; Đêm võ đài Bình Định; Liên hoan Quốc tế Võ cổ truyền Việt Nam lần thứ VIII - Bình Định năm 2023; Giải chạy VnExpress Marathon Quy Nhơn 2023... đã thu hút đông đảo du khách đến với Bình Định. Các khu, điểm du lịch đã chủ động nâng cao chất lượng dịch vụ, tổ chức nhiều sự kiện, hoạt động đặc sắc để mang lại các trải nghiệm hấp dẫn, mới mẻ cho du khách, góp phần nâng cao hiệu quả thu hút du khách.
Trong năm 2023, Bình Định là điểm lựa chọn của các địa phương, bộ ngành tổ chức hội nghị, hội thảo; có hơn 194 hội nghị, hội thảo thu hút gần 40.575 lượt khách, trong đó nhiều hội nghị số lượng khách tham dự lên đến hàng ngàn người như: Hội thảo Hợp tác phát triển Công nghệ thông tin - Truyền thông Việt Nam lần thứ 24 năm 2023 với quy mô 1.000 đại biểu; Hội nghị khoa học Dược bệnh viện thành phố Hồ Chí Minh mở rộng lần thứ XII - 2023 với quy mô 2.200 đại biểu…; ngành du lịch Bình Định đã đẩy mạnh triển khai các chính sách, biện pháp kích cầu, đẩy mạnh công tác hoạt động xúc tiến, liên kết mở rộng thị trường khách du lịch, nhất là ưu tiên thị trường khách du lịch nội địa; công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực du lịch, công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp tục được tăng cường. Nhờ đó, năm 2023 du lịch Quy Nhơn - Bình Định đã có bước phát triển khá tốt, được xếp vào nhóm tăng trưởng mạnh của ngành du lịch Việt Nam và đã trở thành điểm đến hấp dẫn của nhiều du khách trong và ngoài nước.
Trong các tháng cuối năm, nhằm thu hút khách trong mùa du lịch thấp điểm, ngành Du lịch đã tổ chức họp báo Công bố chính sách kích cầu du lịch mùa du lịch thấp điểm, với nhiều chương trình giảm giá hấp dẫn, đã thu hút 51 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh đăng ký tham gia chương trình kích cầu du lịch. Bên cạnh đó, trong tháng 10, tỉnh đã tổ chức thành công “Giải đua thuyền buồm quốc tế và ván chèo đứng Quy Nhơn 2023”, thu hút trên 100 vận động viên tham gia thi đấu. Đây là sự kiện thể thao đầu tiên trong chuỗi sự kiện bên lề quảng bá Giải đua thuyền máy Nhà nghề quốc tế Grand Prix Binh Dinh 2024, góp phần thu hút du lịch trong thời gian tới.
Ngoài ra, UBND tỉnh đã ký kết hợp tác phát triển du lịch Bình Định với các các hãng Hàng không như: Vietnam Airlines, Bamboo Airways; Tập đoàn Vietravel; Saigontourist Group, Hanoitourist Corporation; CLB Lữ hành Unesco Hà Nội; Hiệp hội Du lịch thành phố Hà Nội; hỗ trợ 02 doanh nghiệp du lịch Bình Định (Công ty TNHH Trung Hội, Khách sạn Hải Âu) ký kết với 02 doanh nghiệp Hà Nội (Công ty lữ hành Hanoitourist; Công ty TNHH thương mại và dịch vụ Dolphin).
Bên cạnh tổ chức các sự kiện, ngành du lịch đã tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành quy định trong hoạt động kinh doanh du lịch tại các khu, điểm du lịch, cơ sở lưu trú; kiểm tra hoạt động vận tải khách du lịch và hoạt động của hướng dẫn viên du lịch; tạo hình ảnh về một không gian đẹp nhằm nâng cao hiệu quả thu hút khách trong và ngoài nước
Ước cả năm 2023, ngành du lịch Bình Định ước đón được trên 5 triệu lượt khách, tăng 21,4% so với cùng kỳ; doanh thu du lịch ước đạt 16.405 tỷ đồng, tăng 25% so với cùng kỳ.
Dịch vụ vận chuyển hành khách năm 2023 ước đạt trên 41,2 triệu hành khách, tăng 20,8% và luân chuyển đạt 4.097 triệu hành khách.km, tăng 23,2% so với cùng kỳ. Vận chuyển hàng hoá ước đạt trên 33 triệu tấn, tăng 7,1%; luân chuyển đạt 4.701,1 triệu tấn.km, tăng 6% so với cùng kỳ. Hàng hóa thông qua cảng biển ước đạt trên 12,8 triệu TTQ, giảm 5% so vùng kỳ.
Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh trong năm ước đạt 12.761,697 tỷ đồng, bằng 93,5% dự toán năm và bằng 81,2% so với cùng kỳ. Trong đó, thu nội địa (trừ tiền sử dụng đất; xổ số kiến thiết; thu cổ tức, lợi nhuận được chia và lợi nhuận còn lại) là 7.000,847 tỷ đồng, vượt 1% dự toán năm, bằng 98,1% so với cùng kỳ; thu tiền sử dụng đất là 4.954,051 tỷ đồng, bằng 90,1% dự toán năm, bằng 75,1% so với cùng kỳ; thu xuất nhập khẩu là 508,478 tỷ đồng, đạt 50,8% dự toán năm, bằng 60,7,3% so với cùng kỳ. Tổng chi cân đối ngân sách địa phương ước thực hiện 18.300 tỷ đồng, bằng 97,9% dự toán năm và bằng 91,4% so với cùng kỳ, trong đó chi thường xuyên ước thực hiện 8.685 tỷ đồng, vượt 0,4% dự toán và bằng 90,6% so với cùng kỳ.
Về hoạt động tài chính, tín dụng, tiếp tục thực hiện chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về lãi suất huy động và cho vay; triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời và có hiệu quả các giải pháp, cơ chế, chính sách của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước. Ước đến 31/12/2023, tổng nguồn vốn huy động tại địa phương là 102.988 tỷ đồng, tăng 13,35%, tổng dư nợ là 101.625 tỷ đồng, tăng 5,86% so với cuối năm 2022 (trong đó nợ xấu chiếm khoảng 0,73% tổng dư nợ).
Tổng dư nợ nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội đạt 6.520 tỷ đồng, tăng 17,75% so với cùng kỳ. Từ đầu năm đến nay, nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội được đầu tư đến 100% xã, phường, thị trấn trong tỉnh; trong đó, tập trung ưu tiên cho vay các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, 90% dư nợ tín dụng chính sách được tập trung đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, giáo dục và đào tạo,... Công tác giải ngân vốn thực hiện chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ: dư nợ 967 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch giao.
4. Về thực hiện kế hoạch đầu tư phát triển
- Đầu tư xã hội: Tổng vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh năm 2023 đạt 54.082 tỷ đồng, tăng 15,5% so với cùng kỳ. Trong đó, vốn Nhà nước đạt 17.566 tỷ đồng, tăng 5,9%; vốn ngoài Nhà nước đạt 34.447,1 tỷ đồng, tăng 22,1%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 2.068,7 tỷ đồng, tăng 1,8%.
- Đầu tư công: Ngay từ đầu năm, thực hiện các Quyết định giao kế hoạch vốn của Thủ tướng Chính phủ và HĐND tỉnh, UBND tỉnh đã ban hành các Quyết định phân bổ và giao kế hoạch đầu tư công năm 2023 nguồn ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương đến từng chủ đầu tư, tạo điều kiện cho các đơn vị, địa phương chủ động triển khai có hiệu quả hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn. Tiếp tục đẩy mạnh huy động các nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu chi đầu tư phát triển, tập trung xây dựng hoàn thành các công trình trọng điểm của tỉnh.
Trong năm, UBND tỉnh đã tổ chức nhiều Hội nghị về triển khai, chỉ đạo giải ngân vốn đầu tư công. Bên cạnh đó đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành về công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, đôn đốc giải ngân vốn đầu tư công, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh. Đã tổ chức Lễ khánh thành tuyến đường ven biển đoạn đoạn Cát Tiến – Mỹ Thành; Lễ khởi công tuyến đường ven biển (ĐT.639) đoạn từ Quốc lộ 1D đến Quốc lộ 19 mới. Bên cạnh đó, đã tăng cường kiểm tra, đôn đốc khẩn trương hoàn tất thủ tục đầu tư các dự án, công trình mới theo quy định; tập trung chỉ đạo quyết liệt công tác giải phóng mặt bằng dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông (đoạn qua địa bàn tỉnh); tiếp tục đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng và thi công các dự án, công trình trọng điểm đang triển khai trên địa bàn: Đường ven biển (đoạn Cát Tiến - Diêm Vân), đường Điện Biên Phủ nối dài đến Khu đô thị Diêm Vân, các tuyến đường ngang kết nối Đông - Tây, các dự án tại Khu đô thị Khoa học và Giáo dục Quy Hòa, đập dâng Phú Phong và các công trình trên lĩnh vực văn hóa, lịch sử...
Đối với việc thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia, UBND tỉnh đã kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện, chỉ đạo các cơ quan chủ trì chương trình mục tiêu quốc gia phối hợp với các đơn vị, địa phương trong công tác rà soát văn bản còn thiếu, kịp thời tập hợp các khó khăn, vướng mắc của các đơn vị, địa phương để đề xuất/kiến nghị các cấp có thẩm quyền tháo gỡ, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các chương trình; đã thành lập bốn Tổ công tác liên ngành của tỉnh tiến hành kiểm tra, giám sát kết quả thực hiện và đôn đốc, hướng dẫn, tháo gỡ những tồn tại, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện nội dung các chương trình MTQG tại các địa phương thụ hưởng.
Nhờ đó, kết quả giải ngân vốn đầu tư công của tỉnh đạt kết quả khá tích cực luôn luôn nằm trong nhóm các tỉnh có tỷ lệ giải ngân thuộc nhóm dẫn đầu của cả nước. Giá trị giải ngân vốn đầu tư công do tỉnh quản lý đến 25/11/2023 là 7.192,1 tỷ đồng. So với kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (7.630,6 tỷ đồng), tỷ lệ giải ngân đạt 94,25%; so với kế hoạch Hội đồng nhân dân tỉnh giao (9.634,1 tỷ đồng), tỷ lệ giải ngân đạt 74,65% kế hoạch vốn. Tỷ lệ giải ngân của tỉnh Bình Định xếp thứ 14/63 địa phương cả nước và đứng thứ 2 Khu vực Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung; trong đó, giá trị giải ngân một số nguồn vốn như sau: Vốn ngân sách địa phương là 4.862/6.828 tỷ đồng, đạt 71,21%; vốn ngân sách trung ương là 2.329/2.805 tỷ đồng, đạt 83,04%.
Trên cơ sở rà soát tình hình thực hiện của từng chủ đầu tư, từng dự án, từng nhiệm vụ và khả năng thực hiện nguồn thu tiền sử dụng đất của cả năm 2023, ước thực hiện giải ngân tổng kế hoạch vốn của kế hoạch năm 2023 là 9.107,5 tỷ đồng, so với kế hoạch vốn Thủ tướng Chính phủ giao đạt 119,35%; so với kế hoạch Hội đồng nhân dân tỉnh giao đạt 94,53% kế hoạch vốn (cùng kỳ năm 2022 là 8.505,4 tỷ đồng/9.349,3 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 90,97%).
5. Về thu hút đầu tư và quản lý doanh nghiệp
Công tác xúc tiến, thu hút đầu tư luôn được quan tâm chú trọng. UBND tỉnh đã tiếp và làm việc với các tổ chức, doanh nghiệp, đối tác đến khảo sát, tìm hiểu và đăng ký đầu tư trên các lĩnh vực công nghiệp, năng lượng tái tạo, xây dựng khu đô thị sinh thái và nghỉ dưỡng cao cấp, dịch vụ du lịch, trí tuệ nhân tạo,... Đã tiếp và làm việc với Đại sứ quán, Lãnh sự quán, Đoàn công tác của một số nước như Nhật bản, Trung Quốc, Bỉ, Canada, Đức, Hoa Kỳ, Italia; tổ chức Hội nghị ký kết hợp tác giữa UBND tỉnh và Chính quyền 4 tỉnh Nam Lào giai đoạn 2021 – 2025; Hội thảo xúc tiến đầu tư tỉnh Bình Định, Việt Nam – Bỉ; đã tổ chức Đoàn công tác xúc tiến đầu tư tại Thái Lan, Đức, Nhật, Hàn Quốc, Mỹ, Canada, UAE…
Về đầu tư nước ngoài (FDI): Từ đầu năm đến nay tỉnh thu hút 06 dự án FDI đăng ký đầu tư mới, với tổng vốn đầu tư là 46,2 triệu USD; điều chỉnh 05 dự án điều chỉnh tăng vốn với tổng vốn điều chỉnh tăng 46,5 triệu USD. Tính đến nay, toàn tỉnh có 91 dự án FDI với tổng vốn đăng ký trên 1,19 tỷ USD, qua đó giải quyết một lượng lớn lao động địa phương và thu hút lực lượng lao động chất lượng cao làm việc tại Bình Định.
Về đầu tư trong nước: Từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh thu hút mới 69 dự án với tổng vốn đăng ký 13.709 tỷ đồng. Nếu tính chung cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, đến nay đã thu hút mới 75 dự án với tổng vốn đăng ký gần 15.000 tỷ đồng, vượt 25% kế hoạch năm (75/60 dự án). Trong đó có 19 dự án trong Khu kinh tế và Khu công nghiệp; 56 dự án ngoài Khu kinh tế và Khu công nghiệp. Đồng thời đã thực hiện điều chỉnh vốn 64 dự án với tổng vốn tăng thêm khoảng 3.478 tỷ đồng.
Nếu tính riêng các dự án sản xuất công nghiệp, trong năm 2023 đã thu hút được 49 dự án với tổng vốn đăng ký trên 6.515 tỷ đồng, tăng 44,1% về tổng số dự án và tăng 132,7% về tổng vốn đăng ký (cùng kỳ năm 2022 thu hút được 38 dự án sản xuất công nghiệp với tổng vốn đăng ký khoảng 2.800 tỷ đồng). Một số dự án lớn đã được chấp thuận chủ trương trong thời gian qua như dự án Nhà máy gạch, ngói Takao với tổng vốn đầu tư 1.920 tỷ đồng; Nhà máy sản xuất và chế biến gỗ Tekcom Central với tổng vốn đầu tư 980 tỷ đồng; Dự án Trung tâm Giết mổ gia súc, gia cầm và Chế biến thực phẩm San Hà Bình Định với tổng vốn đầu tư 220 tỷ đồng...
Thực hiện tinh thần hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh trên địa bàn tỉnh, trong thời gian qua các sở, ban, ngành thuộc tỉnh và UBND cấp huyện đã phối hợp tích cực, khẩn trương và có hiệu quả nên bước đầu đã giải quyết được những vướng mắc, khó khăn giúp cho một số dự án quan trọng có thể triển khai sớm.
UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 4147/QĐ-UBND ngày 09/11/2023 ban hành quy chế phối hợp giải quyết các thủ tục hành chính về đầu tư, xây dựng, đất đai, môi trường và phòng cháy chữa cháy trên địa bàn tỉnh Bình Định; theo đó, thời gian giải quyết các thủ tục từ khi chấp thuận chủ trương đầu tư đến khi có Giấy phép xây dựng đối với các dự án ngoài Khu kinh tế, Khu công nghiệp được rút ngắn còn 118 ngày (thời gian theo quy định là 242 ngày), giảm từ 12 lần nộp hồ sơ xuống còn 6 lần, thời gian giải quyết các thủ tục từ khi chấp thuận chủ trương đầu tư đến khi có Giấy phép xây dựng đối với các dự án trong Khu kinh tế, Khu công nghiệp được rút ngắn còn 60 ngày (thời gian theo quy định 145 ngày). Việc ban hành quy chế này nhằm giúp nhà đầu tư dễ dàng nắm bắt được các trình tự thực hiện các thủ tục; thực hiện đồng thời các thủ tục giúp giảm số lần đi lại của nhà đầu tư và rút ngắn thời gian giải quyết các thủ tục.
Hiện nay, Sở Kế hoạch và Đầu tư đang là đầu mối hỗ trợ, hướng dẫn xúc tiến đầu tư một số dự án tại tỉnh như: Dự án Sản xuất Trà Tiến Vua của Liên danh Công ty CP TM và DV Q-LINK - Hợp tác xã Hệ sinh thái Du lịch Suối Giàng; dự án Nhà máy sản xuất các sản phẩm từ sữa tại Bình Định của Công ty Cổ phần Sản xuất Bánh sữa Ba Vì Milk; dự án Siêu thị Aeon Quy Nhơn của Công ty TNHH AEON Việt Nam;...
Về quản lý doanh nghiệp: UBND tỉnh đã chỉ đạo việc thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, đầu tư, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Tính đến tháng 11/2023, có 1.013 doanh nghiệp thành lập mới với tổng vốn đăng ký 8.384 tỷ đồng. So với cùng kỳ năm trước giảm 12,4% về số doanh nghiệp và giảm 15,3% về vốn đăng ký. Cấp đăng ký cho 524 Chi nhánh/văn phòng đại diện/địa điểm kinh doanh; giải thể và chấm dứt hoạt động 71 doanh nghiệp, giảm 6,4%; tạm ngừng hoạt động 569 doanh nghiệp, tăng 10,3%; hoạt động trở lại 290 doanh nghiệp, giảm 15,5%.
6. Về phát triển kinh tế - xã hội miền núi:
Tiếp tục triển khai có hiệu quả các Chương trình MTQG; các chính sách định canh, định cư, lồng ghép các chương trình, dự án giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, giải quyết đất đất ở, đất sản xuất cho người dân thuộc các huyện miền núi. Công tác giảm nghèo và an sinh xã hội miền núi tiếp tục được đảm bảo, tạo điều kiện cho Nhân dân tiếp cận ngày càng tốt hơn với các dịch vụ xã hội cơ bản. Nhiều chính sách, xã hội được đi vào cuộc sống, đóng vai trò là đòn bẩy hỗ trợ các đối tượng yếu thế vươn lên, giúp người dân thấy được quyền lợi từ đó chung sức đồng lòng phát huy tiềm năng lợi thế phát triển kinh tế - xã hội. Mức thu nhập của hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo đã được cải thiện.
II. VỀ VĂN HÓA – XÃ HỘI
1. Về văn hoá, thể thao
Đã tổ chức thành công nhiều Chương trình nghệ thuật, lễ kỷ niệm, tuyên truyền các sự kiện chính trị lớn của đất nước, của tỉnh như: Chào mừng Kỷ niệm 93 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam; Lễ Kỷ niệm 234 năm Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa; chương trình ngày hội Người Bình Định; Lễ đón Bằng di sản văn hóa phi vật thể quốc gia “Lễ hội Chùa Bà - Cảng thị nước Mặn”; Lễ trao tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú”; Ngày hội Văn hóa - Thể thao miền biển Bình Định lần thứ XIV; Ngày hội Văn hóa các dân tộc miền Trung lần thứ IV - Bình Định năm 2023; Liên hoan Quốc tế Võ cổ truyền Việt Nam lần thứ VIII - Bình Định năm 2023; Liên hoan văn hóa cồng chiêng các dân tộc thiểu số tỉnh Bình Định lần thứ II - 2023... Công tác quản lý nhà nước về văn hóa và dịch vụ văn hóa được triển khai thực hiện thường xuyên. Công tác bảo tồn các di sản văn hóa được chú trọng, đặc biệt là trùng tu, tôn tạo đối với các di tích có dấu hiệu xuống cấp.
Các hoạt động nghệ thuật, lễ hội dân gian truyền thống, thể dục thể thao quần chúng được tổ chức với nhiều nội dung đặc sắc, phong phú. Các vận động viên của tỉnh trong đội tuyển Việt Nam tham dự SEA Game 32 đạt 03 huy chương vàng và 03 huy chương bạc
Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả ở một số địa phương.
2. Về giáo dục và đào tạo
Ngành giáo dục và đào tạo đã thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ chủ yếu và các nhóm giải pháp cơ bản trong thực hiện nhiệm vụ năm học 2022-2023.
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo phát triển toàn diện, đã tập trung triển khai thực hiện hiệu quả Chương trình giáo dục phổ thông 2018 theo lộ trình,hoàn thành việc biên soạn tài liệu giáo dục địa phương lớp 4, lớp 8, lớp 11 trình Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt. Chất lượng giáo dục toàn diện, giáo dục mũi nhọn của học sinh trong tỉnh được duy trì, củng cố và ngày càng được nâng lên theo tinh thần đổi mới. Khoảng cách chênh lệch về chất lượng giáo dục giữa thành thị, nông thôn, vùng khó khăn ngày càng được thu hẹp.
Đã tổ chức thành công kỳ thi THPT quốc gia năm 2023 với tỷ lệ tốt nghiệp chung của toàn tỉnh đạt 98,79% (tăng 0,36% so với năm 2022). Ngoài ra, tại kỳ thi học sinh giỏi lớp 12 cấp quốc gia, tỉnh Bình Định có 36 em đạt giải... Công tác triển khai Chương trình Giáo dục phổ thông mới tiếp tục được đẩy mạnh và đạt kết quả tích cực. Đến nay, toàn tỉnh có 415/626 trường học đạt chuẩn quốc gia, tỷ lệ 66,3%.
3. Về hoạt động y tế
Công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 và các dịch bệnh nguy hiểm ở người được triển khai hiệu quả. Công tác y tế dự phòng, khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình tiếp tục được quan tâm; tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 96,07% dân số toàn tỉnh. Duy trì thường xuyên hoạt động truyền thông về đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và giám sát các nguy cơ ô nhiễm thực phẩm trong cộng đồng.
Trong năm, việc thiếu hụt vật tư y tế không xảy ra trên diện rộng và chỉ thiếu hụt một số loại vật tư y tế nhất định (chịu ảnh hưởng của tình trạng chung trong cả nước do đứt gãy nguồn cung, việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật còn nhiều vướng mắc) và xảy ra tại một số bệnh viện như: Bệnh viện đa khoa tỉnh, Bệnh viện đa khoa Khu vực Bồng Sơn. Nguyên nhân chính là trong các tháng đầu năm mặc dù đã tổ chức đấu thầu thường xuyên và liên tục nhưng tỷ lệ mặt hàng không trúng thầu khá cao (số lượng trúng thầu của các gói thầu thấp, chỉ đạt 30-50% tổng số mặt hàng đấu thầu) do vậy phải tổ chức đấu thầu lại rất mất nhiều thời gian. Kể từ quý 2 năm 2023, tình hình cung ứng vật tư y tế đang dần ổn định nhờ những quy định về mua sắm đã được ban hành (Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 04/3/2023 của Chính phủ và Thông tư số 14/2023/TT-BYT ngày 30/6/2023 của của Bộ Y tế), nguồn cung dần ổn định, nhiều gói thầu mua sắm vật tư y tế được triển khai thành công. Hiện nay Bệnh viện đa khoa tỉnh và các cơ sở y tế công lập trực thuộc Sở Y tế đang lập và trình phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu mua sắm vật tư y tế, hóa chất, sinh phẩm chẩn đoán năm 2024 để kịp thời phục vụ công tác khám chữa bệnh.
Ngành y tế thường xuyên chỉ đạo, giám sát, kiểm tra các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh triển khai thực hiện, tuân thủ các quy trình chuyên môn, kỹ thuật theo quy định của Bộ Y tế; tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải tiến quy trình khám bệnh; nâng cao tinh thần trách nhiệm và phong cách, thái độ phục vụ của nhân viên y tế, đi đôi với đảm bảo vệ sinh môi trường và tạo dựng cảnh quan cơ sở y tế “xanh, sạch, đẹp” hướng tới sự hài lòng của người bệnh.
Tiếp tục duy trì 100% số xã trên toàn tỉnh đạt chuẩn quốc gia về y tế và trạm y tế có bác sỹ. Tiếp tục tăng cường quản lý và tạo điều kiện thuận lợi để hệ thống y tế ngoài công lập phát triển, góp phần giảm quá tải và nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân tại các tuyến bệnh viện công lập cấp tỉnh và huyện, thị xã, thành phố.
4. Về lao động, việc làm, an sinh xã hội
Trong năm đã tạo việc làm mới cho 32.029 lao động, đạt 112,38% kế hoạch năm; trong đó có 821 người đi làm việc ở nước ngoài.
Công tác an sinh xã hội, chăm lo đời sống cho các đối tượng chính sách tiếp tục được thực hiện. Nhân các dịp Lễ, Tết, các ngành, các cấp, các địa phương trong tỉnh đều tổ chức tặng quà cho các đối tượng có công với cách mạng; tiến hành việc tu sửa, trang trí và tổ chức lễ viếng các Nghĩa trang, Đài tưởng niệm liệt sỹ. Cơ quan, đơn vị nhận phụng dưỡng các bà Mẹ Việt Nam Anh hùng đều tổ chức thăm viếng, tặng quà các Mẹ Việt Nam Anh hùng.
Công tác giảm nghèo tiếp tục được quan tâm. UBND tỉnh đã chỉ đạo các sở, ngành và UBND các huyện, thị xã, thành phố triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách, dự án hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn nhằm góp phần cải thiện đời sống, tăng thu nhập cho hộ nghèo, hộ cận nghèo để hộ nghèo, hộ cận nghèo từng bước vươn lên thoát nghèo trong năm 2023.
Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em tiếp tục được quan tâm, triển khai thực hiện, trong đó đang đẩy mạnh thực hiện các nội dung thuộc Chương trình phòng, chống tai nạn thương tích trẻ em; Chương trình phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ em; Chương trình Bảo vệ trẻ em...; tổ chức thăm và tặng quà cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và trẻ em thuộc hộ nghèo, cận nghèo nhân ngày Quốc tế thiếu nhi 1/6...
5. Về thông tin, truyền thông và chuyển đổi số:
Hoạt động báo chí, phát thanh, truyền hình tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng trong xã hội, nhất là trên lĩnh vực cung cấp thông tin, tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội. UBND tỉnh đã tổ chức thành công Hội nghị triểm khai nhiệm vụ chuyển đổi số để triển khai các nhiệm vụ cụ thể cần tập trung thực hiện trong năm 2023; phối hợp tổ chức Hội thảo Hợp tác phát triển công nghệ thông tin - truyền thông Việt Nam lần thứ 24 với chủ đề “Dữ liệu số và các nền tảng hỗ trợ ra quyết định”.
Ngành Thông tin và truyền thông đã tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức Chuyển đổi số năm 2023; trong đó tập trung các chuyên đề tập huấn kiến thức cơ bản về chuyển đổi số và nâng cao kiến thức, nghiệp vụ quản lý nhà nước trên nền tảng chuyển đổi số cho các cấp lãnh đạo từ cấp tỉnh đến cấp xã; tổ chức lớp bồi dưỡng nâng cao về an toàn thông tin cho cán bộ chuyên trách CNTT trong các cơ quan nhà nước.
6. Về khoa học và công nghệ:
Tiếp tục Triển khai Kế hoạch phát triển, nâng cao năng lực hệ thống các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ, phát triển mạnh mẽ thị trường khoa học và công nghệ. Hoạt động phản biện các đề tài, dự án tiếp tục tổ chức thực hiện; đẩy mạnh triển khai Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tỉnh; các dự án đầu tư phát triển phần mềm, phục vụ nghiên cứu khoa học… tại Khu đô thị Khoa học và Giáo dục Quy Hòa đã và đang triển khai thực hiện.
7. Hoạt động đối ngoại
Công tác đối ngoại có nhiều cố gắng đổi mới trong hoạt động. Các đoàn khách ngoại giao, khách quốc tế đến tỉnh thăm đều được đón tiếp chu đáo, trọng thị; công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh của tỉnh ra nước ngoài và theo dõi, đôn đốc triển khai thực hiện các nội dung nhiệm vụ đã ký kết hợp tác với các địa phương, đối tác nước ngoài luôn được chú ý quan tâm; tổ chức nhiều sự kiện quan trọng với quy mô lớn, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư, doanh nghiệp, đối tác nước ngoài và các cơ quan, đơn vị trong nước, trong đó có Hội nghị Gặp gỡ các Trưởng cơ quan đại diện ngoại giao và tổ chức nước ngoài tại Việt Nam; sự kiện “Gặp gỡ Bình Định - Nhật Bản 2023” tại tỉnh Bình Định nhân kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản...
III. VỀ NỘI CHÍNH
1. Về xây dựng chính quyền và cải cách hành chính: Công tác xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đã có nhiều đổi mới theo hướng phân cấp, phân quyền, đơn giản hóa thủ tục hành chính. Tiếp tục thực hiện việc sắp xếp tổ chức bên trong các sở, ban, ngành, sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập; quản lý, sử dụng biên chế; thực hiện tinh giản biên chế. Triển khai sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2023 – 2025.
Trong năm, UBND tỉnh đã tổ chức 24 lớp đào tạo, bồi dưỡng cho 1.702/1.737 cán bộ, công chức cấp xã (đạt 97,98% trong tổng số cán bộ, công chức được triệu tập). Nhìn chung, công tác đào tạo, bồi dưỡng đã bám sát từng lĩnh vực chức danh cán bộ, công chức cấp xã; đã cập nhật những kiến thức mới và bổ sung những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, phục vụ cho công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành giải quyết công việc ở cơ sở; góp phần nâng cao năng lực, kỹ năng thực thi công vụ giải quyết các công việc, tạo sự chuyển biến cơ bản về nhận thức của cán bộ, công chức cấp xã, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước, góp phần tổ chức thực hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục, an sinh xã hội ở địa phương.
Tăng cường công tác kiểm tra cải cách hành chính, thực thi công vụ tại các cơ quan, đơn vị qua đó đã kịp thời chấn chỉnh, xử lý trách nhiệm đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm. Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, thực thi công vụ, đạo đức công vụ; thực hiện quyết liệt các giải pháp cải thiện thứ bậc xếp hạng các Chỉ số PAPI, PCI, PAR Index và SIPAS của tỉnh. Năm 2023, UBND tỉnh đã hoàn thành đúng hạn 100% nhiệm vụ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao cho địa phương; công tác giải quyết TTHC có nhiều chuyển biến, kết quả hồ sơ giải quyết đúng và trước hạn đạt 99,9%, cao nhất từ trước đến nay.
2. Công tác phòng, chống tham nhũng, thanh tra, kiểm tra tiếp tục được chỉ đạo triển khai theo kế hoạch, tập trung vào các lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư, xây dựng cơ bản, tài chính - ngân sách và những vụ việc nổi cộm, bức xúc có dấu hiệu tiêu cực, vi phạm pháp luật. Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo tiếp tục thực hiện theo quy định. Số lượng đơn thư, vụ việc khiếu nại, tố cáo lâu ngày còn tồn đọng đã được các cơ quan, đơn vị, địa phương quan tâm xem xét, giải quyết nên số lượng người dân tụ tập tại các cơ quan chức năng giảm đáng kể.
3. Quốc phòng - an ninh: Công tác quốc phòng an ninh luôn được đảm bảo, công tác huấn luyện quân sự, giáo dục quốc phòng và xây dựng lực lượng tiếp tục triển khai theo kế hoạch. Đã hoàn thành việc giao quân năm 2023, đạt 100% chỉ tiêu; bảo vệ an toàn các ngày Lễ lớn của tỉnh và của đất nước. Chỉ đạo tổ chức thành công diễn tập khu vực phòng thủ gắn với phòng thủ dân sự tỉnh năm 2023 và diễn tập khu vực phòng thủ cấp huyện. Các lực lượng chức năng đã chủ động nắm bắt tình hình, phát hiện, xử lý kịp thời nhiều vụ việc liên quan đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm được tăng cường; đã tổ chức nhiều đợt cao điểm ra quân tấn công, trấn áp các loại tội phạm, phòng chống tệ nạn xã hội và kiềm chế tai nạn giao thông.
Trên địa bàn tỉnh từ đầu năm đến nay đã xảy ra 130 vụ tai nạn giao thông, làm 91 người chết, 88 người bị thương. So với cùng kỳ tăng 37 vụ (tăng 39,8%), tăng 01 người chết (tăng 1,1%), tăng 52 người bị thương (tăng 144,4%)