Tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội lần thứ XX của Đảng bộ tỉnh
Thứ tư - 13/07/2022 15:01
Với quyết tâm giành thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2021-2025, ngay từ đầu năm 2021, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, kịp thời các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, các Nghị quyết của Chính phủ, Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Nghị quyết và các Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, Kết luận của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Nghị quyết của HĐND tỉnh, các Văn bản, Chương trình, Kế hoạch hành động, Chương trình công tác trọng tâm của UBND tỉnh. Nhờ đó, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh năm 2021 và những tháng đầu năm 2022 tiếp tục chuyển biến tích cực, đạt kết quả toàn diện trên hầu hết các ngành, lĩnh vực, cụ thể như sau
A. VỀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2021-2025 - Tổng sản phẩm địa phương (GRDP) năm 2021 của tỉnh (theo giá so sánh 2010) tăng 4,11%, tuy không đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra (tăng bình quân hàng năm 7-7,5%) nhưng đó là quyết tâm, nỗ lực rất lớn, đáng ghi nhận của các ngành, địa phương và toàn thể Nhân dân trong tỉnh đã chung sức, đồng lòng phấn đấu, vượt qua khó khăn các thử thách, nhất là tác động tiêu cực của dịch bệnh Covid-19 và các đợt lũ lụt cuối năm 2021. Trong đó: Nông, lâm, thuỷ sản tăng 2,94% (chỉ tiêu giao 3,2-3,6%); Công nghiệp và xây dựng tăng 8,49% (chỉ tiêu giao 9,5-10,2%); Dịch vụ tăng 1,48% (chỉ tiêu giao 7,1-7,5%). GRDP của tỉnh 6 tháng đầu năm 2022 tăng 7,01% so với cùng kỳ (cao hơn mức tăng trưởng bình quân cả nước và xếp thứ 03 trong Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung); trong đó: Nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,17%; công nghiệp và xây dựng tăng 8,28% (riêng công nghiệp tăng 8,88%); dịch vụ tăng 9,4%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 8,2%
- Cơ cấu kinh tế đến cuối năm 2021 chuyển dịch theo hướng tích cực: Nông, lâm, thuỷ sản chiếm 29,35%; công nghiệp và xây dựng chiếm 29,65%; dịch vụ chiếm 36,5%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 4,5%.
- GRDP bình quân đầu người đến cuối năm 2021 đạt 2.591 USD (chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra đến năm 2025 đạt 3.900 USD).
- Thu ngân sách nhà nước năm 2021 đạt 14.553 tỷ đồng, vượt 37,8% dự toán năm 2021 (chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra đến năm 2025 đạt 16.000 tỷ đồng).
- Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2021 đạt 1.332,6 triệu USD, vượt 15,8% kế hoạch năm 2021; tính đến 5 tháng đầu năm 2022, đạt 2.175,5 triệu USD, đạt gần 36,3% kế hoạch (chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội giao giai đoạn 2021 - 2025 đạt trên 6.000 triệu USD).
- Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội/GRDP cuối năm 2021 đạt 44,45%, vượt so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra là bình quân hằng năm đạt trên 41%.
- Tỷ lệ đô thị hóa đến cuối năm 2021 là 46,1%, đạt 87,3% so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra đến năm 2025 là 52,8%.
- Số xã đạt tiêu chí nông thôn mới đến nay là 83/113 xã, đạt tỷ lệ 73,4%, 7/113 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, chiếm 7,07% và có 05 đơn vị cấp huyện được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và đạt chuẩn nông thôn mới.
- Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, bồi dưỡng nghề đến cuối năm 2021 đạt 58% so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra đến năm 2025 đạt 66%.
- Duy trì 100% tỷ lệ trạm y tế có bác sỹ và tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt Bộ Tiêu chí quốc gia về y tế, đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra.
- Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia đến nay đạt 62,14%; trong đó cấp mầm non đạt 30,6%, cấp tiểu học đạt 75%(chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra đến năm 2025 đạt 70%).
- Giải quyết việc làm mới năm 2021 đạt 25.146 lao động, tuy chưa đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra là 30.000 người/năm, nhưng là sự nỗ lực rất lớn của tỉnh trong bối cảnh tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp trong thời gian qua.
- Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi ở mức dưới 8%, đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra.
- Tỷ lệ che phủ rừng năm 2021 đạt 56,5% (chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra đến năm 2025 đạt 58%).
- Tỷ lệ dân cư nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 100%, đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra; trong đó, tỷ lệ sử dụng nước sạch 29,5% so với 40% kế hoạch đề ra đến năm 2025.
- Tỷ lệ dân cư đô thị sử dụng nước sạch đến nay đạt 82% so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra đề ra đến năm 2025 là 83%.
- Tỷ lệ thu gom chất thải rắn đạt 80,65% so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra đến năm 2025 đạt 84%.
- Tỷ lệ chất thải công nghiệp, chất thải y tế được thu gom và xử lý đạt chuẩn môi trường duy trì 100%, đạt so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra. B. VỀ PHÁT TRIỂN TỪNG NGÀNH, LĨNH VỰC
I. Về phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ
1. Về phát triển công nghiệp: Tỉnh đã chỉ đạo thành lập Tổ công tác, tổ chức Hội nghị nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp. Tăng cường theo dõi, nắm bắt tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; triển khai kịp thời, hiệu quả các chủ trương, chính sách của Trung ương, của Tỉnh và các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA), nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, mở rộng xuất khẩu. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2021 đạt 51.886,5 tỷ đồng, tăng 7,65% so với cùng kỳ. Tổng kim ngạch xuất khẩu đến cuối tháng 6 năm 2022 đạt 2.175,5 triệu USD, đạt gần 36,3% kế hoạch giao. Tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng và bố trí tái định cư các dự án đầu tư, kinh doanh tại KKT Nhơn Hội và các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh để sớm xây dựng hạ tầng kỹ thuật, bàn giao mặt bằng cho các nhà đầu tư triển khai thực hiện dự án; đôn đốc đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng và triển khai thực hiện dự án Khu Công nghiệp, Đô thị và Dịch vụ Becamex Bình Định, Khu liên hợp sản xuất gang thép Long Sơn và Cảng tổng hợp quốc tế Long Sơn (Phù Mỹ); đồng thời, tăng cường công tác quản lý đất đai, bảo vệ môi trường, sinh thái và xử lý cưỡng chế dứt điểm các trường hợp lấn chiếm đất đai, xây dựng nhà trái phép tại KKT Nhơn Hội, và các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Tính đến nay, trên địa bàn KKT Nhơn Hội và các khu công nghiệp có 405 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký 135.839 tỷ đồng, vốn đầu tư thực hiện khoảng 38.459 tỷ đồng (chiếm tỷ lệ 28,4% tổng vốn đăng ký). Trong đó, có 39 dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vốn đăng ký 818 triệu USD. Tại KKT Nhơn Hội có tổng số dự án đăng ký đầu tư là 121 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 119.533 tỷ đồng (có 15 dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng vốn đăng ký đầu tư 610 triệu USD), vốn đầu tư thực hiện đạt khoảng 28.485 tỷ đồng; tại các khu công nghiệp có 276 dự án (bao gồm các dự án đầu tư hạ tầng) đầu tư được cấp Giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đầu tư khoảng 16.326 tỷ đồng (có 25 dự án FDI với tổng vốn đầu tư 208 triệu USD), vốn đầu tư thực hiện 9.974 tỷ đồng.
Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, xây dựng kết cấu hạ tầng, thu hút đầu tư tại các cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục được chú trọng. Hiện nay, toàn tỉnh có có 45/62 cụm công nghiệp (CCN) đã đi vào hoạt động với tỷ lệ lấp đầy 60,8%. Đã thu hút được 12 doanh nghiệp làm chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật 14 CCN với diện tích đất thuê 513,7 ha và 385 dự án thứ cấp đăng ký đầu tư với ngành nghề chủ yếu: Chế biến nông lâm thủy hải sản; cơ khí; bao bì các loại; may mặc; vật liệu xây dựng, sản xuất hàng kim loại đan nhựa giả mây, sản xuất sản phẩm, phụ tùng, lắp ráp và sửa chữa máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp, nông thôn; trong đó có 276 dự án đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh; tổng số vốn đầu tư của các dự án 6.724,7 tỷ đồng, vốn thực hiện 5.469 tỷ đồng, đạt 81,3% với suất đầu tư bình quân 17,5 tỷ đồng/dự án... phù hợp với mục tiêu đầu tư xây dựng CCN nhằm thu hút, di dời các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ hợp tác vào đầu tư sản xuất kinh doanh, góp phần giải quyết lượng lớn nhu cầu lao động tại các địa phương, nhất là lao động nông thôn.
Đã xây dựng, hoàn thiện và triển khai các chương trình, kế hoạch phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề đến năm 2025 và những năm tiếp theo. Bổ sung cơ chế, chính sách thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu công nghiệp, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo với hàm lượng khoa học công nghệ cao, tăng tỷ lệ nội địa hóa; ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp xanh, công nghiệp phụ trợ... Chú trọng phát triển các ngành hàng, sản phẩm có lợi thế của tỉnh. Nâng cao hiệu quả công tác khuyến công. Trong năm 2021, toàn tỉnh đã thực hiện 27 chương trình, đề án khuyến công quốc gia và địa phương, với tổng kinh phí 5,3 tỷ đồng, trong đó có 22 chương trình, đề án khuyến công địa phương. Việc triển khai các chương trình, đề án khuyến công trên địa bàn tỉnh thời gian qua đã góp phần tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cấp máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất. Hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp và làng nghề tiếp tục phát triển ổn định, đã bổ sung thêm một số mặt hàng, sản phẩm của địa phương, góp phần làm phong phú thêm số lượng, chủng loại hàng hóa, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của đại bộ phận người dân, nhất là ở khu vực nông thôn; trong đó, một số sản phẩm làng nghề tiêu biểu như: Gỗ mỹ nghệ, gốm mỹ nghệ, thảm xơ dừa, rượu bàu đá... đã được ưa chuộng tại thị trường trong nước và bước đầu xuất sang một số nước trong khu vực, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn. 2. Về phát triển nông nghiệp và nông thôn:
Tiếp tục triển khai thực hiện Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững” và các chính sách về chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, cơ cấu cây trồng, vật nuôi bước đầu mang lại hiệu quả. Sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện, hầu hết các chỉ tiêu về sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản đều đạt và vượt kế hoạch đề ra.
Tập trung đẩy mạnh phát triển nông nghiệp nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật trong trồng trọt, bảo quản chế biến nông sản, khuyến khích phát triển các mô hình sản xuất đạt hiệu quả kinh tế; đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp; thực hiện chương trình mỗi xã một sản phẩm (Chương trình OCOP), giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản năm 2021 (theo giá so sánh 2010) đạt 27.093,5 tỷ đồng, tăng 3,1% so với cùng kỳ (trong đó: Nông nghiệp đạt 15.794,8 tỷ đồng, tăng 3,7%; lâm nghiệp đạt 1.446,4 tỷ đồng, tăng 2,3%; thủy sản đạt 9.852,3 tỷ đồng, tăng 2,2% so với cùng kỳ).
Giá trị sản xuất ngành trồng trọt ước đạt 7.051,4 tỷ đồng, tăng 2,1% so với cùng kỳ. Công tác chuẩn bị sản xuất, phòng chống dịch bệnh và chỉ đạo sản xuất được thực hiện tốt trong năm. Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm ước đạt 154.139 ha, tăng 0,7% so với cùng kỳ; trong đó, diện tích lúa cả 3 vụ ước đạt 95.955 ha, tăng 2% so với cùng kỳ. Tổng sản lượng lúa ước đạt 637.733 tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ; năng suất bình quân ước đạt 66,4 tạ/ha, tăng 0,8 tạ/ha so với cùng kỳ. Đây là năm đạt năng suất lúa cao nhất từ trước đến nay. Đồng thời, đã chuyển đổi trên đất lúa ước đạt 3.819 ha, tăng 350 ha so với cùng kỳ; trong đó, chuyển đổi sang trồng lạc, rau màu mang lại hiệu quả kinh tế cao, bền vững. Thực hiện chuyển đổi diện tích đất trồng sắn, trồng mía sang cây trồng cạn mang lại hiệu quả kinh tế cao, các mô hình chuyển đổi hiệu quả đã được các địa phương nhân rộng, như: Chuyển đổi trồng lạc, ngô, mè (huyện Tây Sơn); trồng lạc xen sắn (huyện Phù Cát); trồng rau màu (huyện Phù Mỹ). Đã thực hiện chuyển đổi 177ha từ đất sản xuất 3 vụ lúa sang sản xuất 2 vụ lúa/năm, lũy kế đến nay đã chuyển đổi được 3.912ha, đạt 43,8% kế hoạch. Đã phê duyệt 08 dự án cánh đồng lớn, dự án liên kết sản xuất lúa giống với diện tích 982,3 ha, tổng số hộ tham gia 4.283 hộ. Ngoài ra, các doanh nghiệp, HTX nông nghiệp liên kết sản xuất giống lúa, nâng diện tích sản xuất lúa giống cả tỉnh 3.133 ha, ước sản lượng trên 20.000 tấn, đã hình thành vùng sản xuất lúa giống tập trung ở huyện Tuy Phước, Tây Sơn, Phù Cát, các thị xã An Nhơn và Hoài Nhơn... Tổng diện tích cây lâu năm toàn tỉnh ước đạt 19.676,5 ha, tăng 0,3% so với cùng kỳ. Ngành chăn nuôi phát triển tập trung theo hướng công nghiệp, bán công nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn với chế biến và giết mổ động vật tập trung. Đã chỉ đạo đẩy mạnh phát triển đàn heo, đàn bò thịt chất lượng cao; nuôi gà thả đồi tại một số huyện miền núi, trung du của tỉnh gắn với thực hiện có hiệu quả công tác tiêm phòng vắc xin và phòng, chống dịch bệnh trên gia súc, gia cầm, nhất là bệnh viêm da nổi cục trên đàn bò; chú trọng phát triển các chuỗi liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi gắn với thu hút đầu tư các nhà máy chế biến súc sản, gia cầm nhằm nâng cao giá trị sản xuất. Đến nay, đàn heo trong tỉnh có trên 658.800 con, giảm 1,2% (tháng 3/2022, “Nhãn hiệu Heo Hoài Ân” đã được Cục sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ công nhận); đàn bò trên 297.900 con, tăng 0,4%; đàn gia cầm trên 9,1 triệu con, tăng 3,7%; trong đó, đàn gà trên 6,8 triệu con, tăng 5,1% so với cùng kỳ. Năm 2021, sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng ước đạt 36.179 tấn, tăng 2,3%. Sản lượng thịt heo hơi xuất chuồng ước đạt 125.965 tấn, tăng 6,5% so với cùng kỳ. Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng ước đạt 24.287 tấn, tăng 8,2% so với cùng kỳ. Công tác quản lý, bảo vệ, khoán khoanh nuôi tái sinh rừng, chăm sóc rừng trồng đạt kết quả khá tốt; tỷ lệ che phủ rừng đạt 56,5%. Phát triển sản xuất trồng rừng gỗ lớn trên cơ sở thay đổi phương thức kinh doanh trồng rừng gỗ nhỏ chủ yếu cung cấp băm dăm, sang trồng rừng gỗ lớn đáp ứng nhu cầu chế biến của các nhà máy chế biến đồ gỗ tinh chế trên địa bàn tỉnh. Đến nay, diện tích trồng rừng sản xuất cây gỗ lớn, chuyển hóa rừng trồng sản xuất gỗ nhỏ sang gỗ lớn trên địa bàn tỉnh là 3.175 ha. Nâng cao hiệu quả sử dụng đất lâm nghiệp và tài nguyên rừng; bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Công tác phòng, chống cháy rừng, phá rừng, xử lý lấn chiếm đất lâm nghiệp trái pháp luật được các cấp, các ngành chỉ đạo triển khai quyết liệt. Ngành thủy sản tiếp tục phát triển, khẳng định là ngành kinh tế quan trọng của tỉnh. Sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản năm 2021 đạt 270.232,4 tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ; trong đó, sản lượng khai thác đạt 258.136,3 tấn, tăng 2,3% (trong đó sản lượng khai thác cá ngừ đại dương đạt 11.303,5 tấn, giảm 4%), sản lượng nuôi trồng đạt 12.096,1 tấn, tăng 5,1%. Khai thác thủy sản trên địa bàn tỉnh được tăng cường ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong khai thác, bảo quản để nâng chất lượng thủy sản sau khai thác, như: Sử dụng thiết bị dò cá bằng sóng siêu âm, máy đo dòng chảy; sử dụng máy thu lưới, thu câu, thiết bị định vị vệ tinh… giúp chủ tàu cá giảm được công sức của người lao động; sử dụng công nghệ khai thác cá ngừ đại dương bằng công nghệ Nhật Bản; ứng dụng vật liệu mới, có tính cách nhiệt tốt để làm hầm bảo quản; áp dụng công nghệ bảo quản tiên tiến vào sản xuất như dung thiết bị lạnh, bảo quản bằng công nghệ nano. Các mô hình nuôi trồng thủy sản đạt hiệu quả kinh tế cao đang được khuyến khích nhân rộng tại các địa phương ven biển, đặc biệt là mô hình nuôi tôm công nghệ cao trong nhà kính của Tập đoàn Việt Úc, sản lượng nuôi tôm công nghệ cao ước đạt 1.760 tấn. Đã hoàn thành Quy hoạch phân khu xây dựng tỷ lệ 1/2000 Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển tôm xã Mỹ Thành, huyện Phù Mỹ. Công tác khắc phục cảnh báo của Ủy ban châu Âu về khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định (IUU) tiếp tục triển khai thực hiện. Công tác quản lý hệ thống giám sát hành trình tàu cá đã được thực hiện thường xuyên, liên tục, trực theo dõi 24/24 tại trạm bờ để phát hiện và cảnh báo tàu vượt ra ngoài vùng tự do đánh bắt của Việt Nam. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thônmới đạt nhiều kết quả tích cực. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua “Bình Định chung sức xây dựng nông thôn mới”; gắn tái cơ cấu ngành nông nghiệp với đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới. Tăng cường thu hút các nguồn lực và lồng ghép các nguồn vốn đầu tư phát triển các công trình hạ tầng cơ bản trên địa bàn xã, thôn, tích cực hỗ trợ phát triển sản xuất, bảo vệ môi trường, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của người dân. Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, xúc tiến thương mại gắn với từng sản phẩm hàng hóa xuất khẩu. Tổ chức và nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn để nông dân có việc làm tại chỗ. Đến nay, có 83/113 xã đạt chuẩn nông thôn mới, đạt tỷ lệ 73,4%, có 07/113 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, chiếm 7,07% và có 05 đơn vị cấp huyện được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và đạt chuẩn nông thôn mới. Chương trình mỗi xã 01 sản phẩm (OCOP) tiếp tục được quan tâm, đến nay UBND tỉnh đã công nhận 133 sản phẩm đạt tiêu chuẩn OCOP cấp tỉnh; trong đó, 06 sản phẩm đạt hạng tiềm năng 5 sao, 14 sản phẩm đạt hạng 4 sao, 113 sản phẩm đạt hạng 3 sao. Công tác quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản tiếp tục được tăng cường; đang thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2030 để tích hợp vào Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Công tác chuyển đổi diện tích đất lúa, đất rừng phục vụ các dự án đầu tư hạ tầng trọng điểm, các dự án phát triển kinh tế - xã hội đảm bảo các quy định của pháp luật; công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức, cá nhân được chú trọng. 3. Về hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch, tài chính:
Thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chương trình kích thích tiêu dùng nội địa, kích cầu du lịch, dịch vụ,… nhằm từng bước khôi phục, phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch phù hợp với diễn biến dịch bệnh Covid-19, vì vậy hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch, tài chính đạt kết quả khá; xuất khẩu được đẩy mạnh; du lịch phát triển nhanh, trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh; hạ tầng thương mại, dịch vụ tiếp tụcđược đầu tư xây dựng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội năm 2021 tăng 4,5% so cùng kỳ; 6 tháng đầu năm tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội tăng 14,5% so cùng kỳ.
Công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại, kiểm soát chất lượng hàng hóa, bảo đảm an toàn thực phẩm gắn với kiểm tra việc bán hàng theo giá niêm yết được tiến hành thường xuyên; thực hiện có hiệu quả các biện pháp bình ổn giá trên địa bàn; đảm bảo các mặt hàng thiết yếu cho đồng bào miền núi. Hoạt động xúc tiến thương mại có nhiều tiến bộ.
Tỉnh đã tạo điều kiện đầu tư nâng cấp các cảng biển, phát triển dịch vụ logistics, dịch vụ kho bãi, chỉ đạo xây dựng kế hoạch Xây dựng, hoàn thiện hạ tầng cảng biển, cảng cạn (ICD), kho bãi, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, các trung tâm logistics để phát triển dịch vụ cảng biển, logistics của tỉnh và khu vực; đảm bảo tính đồng bộ của hạ tầng giao thông và dịch vụ vận tải với mục tiêu phát triển ngành dịch vụ cảng và logistics để tích hợp vào Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Hoạt động xuất khẩu tiếp tục được đẩy mạnh, tính đến cuối tháng 6 năm 2022, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 2.175,5 triệu USD, đạt gần 36,3% kế hoạch Nghị quyết Đại hội giao (kế hoạch giao giai đoạn 2021-2025 đạt 6.000 triệu USD). Hàng hóa thông qua cảng biển năm 2021 đạt trên 13,6 triệu tấn, đạt cao nhất từ trước đến nay, tăng 6,1% so với cùng kỳ, riêng 6 tháng đầu năm 2022 đạt 7,27 triệu tấn, tăng 1,4% so cùng kỳ.
Tập trung phát triển du lịch Bình Định trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác; góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Đưa Bình Định trở thành điểm đến an toàn, có nét đặc trưng riêng, văn minh, thân thiện và hấp dẫn. Tuy trong năm 2021 hoạt động du lịch của tỉnh suy giảm đáng kể do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nhưng nhờ triển khai hiệu quả chương trình kích cầu du lịch, đã tổ chức triển khai các chương trình kích cầu du lịch nội địa tại Hải Phòng, Nghệ An, Quảng Ninh; liên kết phát triển du lịch Bình Định - TP Hồ Chí Minh, Bình Định - TP Hà Nội; tổ chức chương trình kích cầu du lịch “Người Bình Định đi du lịch Bình Định”… Bên cạnh đó, tiếp tục tăng cường quảng bá, xúc tiến du lịch, đặc biệt là quảng bá thương hiệu Quy Nhơn - thành phố Du lịch sạch ASEAN 2020; chú trọng chỉnh trang cơ sở vật chất, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của du khách…; đồng thời, theo dõi, đôn đốc đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng hoàn thành đưa vào khai thác, sử dụng các dự án khách sạn, khu nghỉ dưỡng cao cấp và cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ phát triển du lịch; đồng thời, tăng cường đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ phát triển du lịch. Tính riêng 6 tháng đầu năm 2022 du lịch Bình Định có nhiều khởi sắc, đón được trên 2,3 triệu lượt khách, tăng 94% so với cùng kỳ. Tổng doanh thu du lịch đạt khoảng 5.715,6 tỷ đồng, tăng 256,7% so với cùng kỳ. Tính đến nay, toàn tỉnh có 390 cơ sở lưu trú khách sạn với 12.102 phòng (trong đó, số phòng lưu trú tiêu chuẩn từ 3 sao trở lên chiếm 27,4% với 3.314 phòng).
Tập trung chú trọng bồi dưỡng, phát triển nguồn thu bền vững; khai thác, huy động đầy đủ, kịp thời, đúng pháp luật các nguồn thu vào ngân sách nhà nước; rà soát, cắt giảm các khoản chi không thật sự cần thiết để tập trung nguồn lực phục vụ cho công tác phòng, chống đại dịch Covid-19 và tăng chi đầu tư phát triển; thực hiện các biện pháp tăng thu, chống thất thu, nuôi dưỡng nguồn thu và nợ đọng thuế; đẩy mạnh thực hiện kê khai thuế điện tử và giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản các công trình thuộc các nguồn vốn nhà nước, vốn ODA,… Năm 2021, tổng thu ngân sách nhà nước đạt trên 13.707 tỷ đồng; tính chung 6 tháng đầu năm 2022, tổng thu ngân sách đạt 7.608,9 tỷ đồng, đạt 67,5% dự toán năm và tăng 16,5% so với cùng kỳ; trong đó, thu nội địa (trừ tiền sử dụng đất; xổ số kiến thiết; thu cổ tức, lợi nhuận được chia và lợi nhuận còn lại) là 3.555,9 tỷ đồng, đạt 58,8% dự toán năm và tăng 4% so với cùng kỳ. Riêng thu tiền sử dụng đất là 3.399,3 tỷ đồng, đạt 85% dự toán năm, tăng 38,8% so với cùng kỳ; thu hoạt động xuất nhập khẩu là 577,9 tỷ đồng, đạt 63,9% dự toán năm, tăng 6,9% so với cùng kỳ. Hoạt động tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm cơ bản ổn định và có bước phát triển. Các tổ chức tín dụng đã tập trung đánh giá, xem xét cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho các khoản vay bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 nhằm hỗ trợ khách hàng và tránh phát sinh nợ xấu. Năm 2021, tổng nguồn vốn huy động tại địa phương tăng 9,5%; tổng dư nợ tăng 6,8% so với cùng kỳ, trong đó nợ xấu chiếm khoảng 0,9% so với tổng dư nợ. Trong 6 tháng đầu năm 2022, tổng vốn huy động tăng 8,07%, dư nợ tăng 7,18%, trong đó nợ xấu chiếm 0,3%. Tín dụng tiếp tục được kiểm soát chặt chẽ, tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng, hỗ trợ doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế, hạn chế tín dụng đen; thanh toán không dùng tiền mặt được triển khai và đạt kết quả tích cực, đã ứng dụng tất cả công nghệ mới trên thế giới...; cho vay theo các chương trình an sinh xã hội được chú trọng, góp phần thực hiện tốt các mục tiêu đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn. II. Về xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển các khu vực trong tỉnh 1. Xây dựng kết cấu hạ tầng:
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ngày càng hoàn thiện, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển của tỉnh. Đã tập trung huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển của tỉnh, tạo diện mạo mới cho đô thị và nông thôn trên địa bàn. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, UBND tỉnh đã ban hành các Quyết định giao kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 nguồn vốn ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, với tổng số vốn 36.791,243 tỷ đồng (trong đó ngân sách địa phương là 27.573,627 tỷ đồng, ngân sách Trung ương là 9.217,616 tỷ đồng); phân bổ cho các ngành, lĩnh vực: Giao thông vận tải 12.042,984 tỷ đồng; hạ tầng kỹ thuật đô thị, môi trường, khu dân cư, khu tái định cư, chợ, điện 3.000,187 tỷ đồng; nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thủy lợi, thủy sản và nước sạch nông thôn 3.992,088 tỷ đồng; thông tin và truyền thông 63,537 tỷ đồng; giáo dục và đào tạo 744,58 tỷ đồng; y tế 669,697 tỷ đồng; khoa học và công nghệ 36,733 tỷ đồng; văn hóa, thể thao 364,856 tỷ đồng; lao động thương binh và xã hội 25,71 tỷ đồng; quản lý nhà nước, quốc phòng an ninh 814,551 tỷ đồng.
Năm 2021, tổng vốn đầu tư pháp triển trên địa bàn tỉnh đạt 42.364,7 tỷ đồng, tăng 10,1% so với cùng kỳ. Kế hoạch vốn NSNN do tỉnh quản lý chi đầu tư phát triển năm 2021 chủ yếu bố trí cho các công trình, dự án trọng điểm của tỉnh để phục vụ phát triển kinh tế xã hội như: Đường vào ga Diêu Trì; Kè xã Nhơn Hải (thành phố Quy Nhơn); Nâng cấp, mở rộng đường và Sân bay Phù Cát... Trong năm, các công trình trọng điểm nêu trên đã được khánh thành, đưa vào sử dụng, thực sự phát huy hiệu quả, tạo được sức lan tỏa và góp phần thu hút các dự án đầu tư của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước. Một số dự án, công trình trọng điểm đã và đang triển khai đầu tư xây dựng, cụ thể: - Các dự án hoàn thành, đưa vào khai thác sử dụng: Dự án Đường ven biển (ĐT.639) các đoạn: Cát Tiến - Đề Gi, cầu Lại Giang - cầu Thiện Chánh; Mở rộng đường vào sân bay Phù Cát; Một số Dự án thành phần thuộc Đề án Sửa chữa, nâng cấp mở rộng các tuyến đường tỉnh, tuyến quốc lộ 19B; Cầu Phú Văn, huyện Hoài Ân; Hồ chứa nước Đồng Mít và các dự án gắn kết, phụ trợ; Kè chống sạt lở kết hợp bến cập tàu Cảng cá Tam Quan;… - Các dự án đang triển khai thi công xây dựng:Dự ánĐường ven biển (ĐT.639), đoạn Đề Gi - Mỹ Thành; Đường Điện Biên Phủ nối dài đến Khu đô thị Diêm Vân; Đập dâng Phú Phong, huyện Tây Sơn; Tuyến đường ven biển, đoạn Cát Tiến - Diêm Vân; Tuyến đường kết nối từ trung tâm thị xã An Nhơn đến đường ven biển phía Tây đầm Thị Nại; Tuyến đường kết nối với đường ven biển (ĐT.639) trên địa bàn thị xã Hoài Nhơn; Tuyến đường kết nối từ đường phía Tây tỉnh (ĐT.638) đến đường ven biển (ĐT.639) trên địa bàn huyện Phù Mỹ; Xây dựng tuyến đường tránh phía Nam thị trấn Phú Phong; Tuyến đường tránh ĐT.633, đoạn từ núi Ghềnh đến giáp đường ven biển (ĐT.639), huyện Phù Cát; Đường kết nối thị trấn An Lão với đường An Hòa đi Ân Hảo Tây; Một số Dự án thành phần thuộc Đề án Sửa chữa, nâng cấp mở rộng các tuyến đường tỉnh, tuyến quốc lộ 19B; Đập dâng Hà Thanh 1, huyện Vân Canh; Hạ tầng cảng cá Tam Quan, thị xã Hoài Nhơn; Khắc phục khẩn cấp hậu quả thiên tai (Kè chống sạt lở Thế Thạnh - Phú Văn, xã Ân Thạnh, huyện Hoài Ân; Cầu Đại Hàn, huyện Tuy Phước);.. - Các dự án đang thực hiện công tác chuẩn bị đầu tư:Dự ánXây dựng tuyến đường ven biển (ĐT.639) đoạn từ Quốc lộ 1D - Quốc lộ 19 mới; Đường phía Tây huyện Vân Canh (từ khu công nghiệp, đô thị và dịch vụ Becamex Bình Định đến thị trấn Vân Canh); Dự án Phát triển tích hợp thích ứng - tỉnh Bình Định (02 dự án thành phần: Tuyến đường từ Quốc lộ 19C kết nối Cảng Quy Nhơn; tuyến Đường ven biển (ĐT.639) đoạn Mỹ Thành - Lại Giang); Xây dựng cơ sở hạ tầng thích ứng biến đổi khí hậu cho đồng bào dân tộc thiểu số (CRIEM); Sửa chữa, nâng cấp các hồ chứa nước hư hỏng, xuống cấp giai đoạn 2021-2025; Sửa chữa, nâng cấp hệ thống thủy lợi La Tinh; Đập ngăn mặn An Mỹ, huyện Phù Mỹ.
Ngoài ra, một số dự án được bổ sung danh mục đầu tư và phân bổ kế hoạch vốn giai đoạn 2021-2025 như: Dự án Tuyến đường kết nối từ Quốc lộ 19 đến Khu Công nghiệp, Đô thị và Dịch vụ Becamex VSIP Bình Định; Tuyến đường tránh qua Nhơn Lý; Xây dựng cầu mới Kiên Mỹ, huyện Tây Sơn; Đường kết nối giao thông hai tuyến ĐT.636 và ĐT.638 (xã Nhơn Khánh và xã Nhơn Lộc), thị xã An Nhơn; Đường kết nối đường 26-3, phường Tam Quan đến Cụm Công nghiệp Hoài Châu; Đường phía Tây huyện Phù Cát (tuyến từ Khu CN Hòa Hội đến khu vực sân bay Phù Cát); Tuyến đường liên huyện từ thị trấn Phù Mỹ đi xã Cát Minh, huyện Phù Cát; Tuyến đường từ cầu Mục Kiến giao ĐT.638 đi xã ĐakMang, huyện Hoài Ân; .....
Hạ tầng y tế, giáo dục và văn hóa xã hội được quan tâm đầu tư. Đang triển khai thực hiện các dự án: Đền thờ Võ Văn Dũng; Xây dựng, tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị di tích tại Tháp Bánh Ít; Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định, hạng mục: Khu điều trị và chẩn đoán hình ảnh, thăm dò chức năng; Trung tâm Y tế huyện Hoài Ân; Xây dựng mới khu nhà điều trị - nhà hành chính của Trung tâm y tế thành phố Quy Nhơn; Mở rộng Trường Cao đẳng Kỹ thuật Công nghệ Quy Nhơn. Đồng thời, tập trung triển khai thực hiện công tác đầu tư đối với các dự án mới trong năm 2022: Bệnh viện Tâm thần Bình Định; Xây dựng mới Nhà đặt máy gia tốc Xạ trị thuộc khoa Ung bướu Bệnh viện đa khoa tỉnh; Trạm nghiên cứu thực nghiệm khoa học và công nghệ thuộc Trung tâm Thông tin - Ứng dụng khoa học và công nghệ Bình Định; Bể bơi lớn (bể bơi huấn luyện và thi đấu) tại Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu thể thao tỉnh ... 2. Tăng cường liên kết, phát triển các khu vực trong tỉnh:
Tỉnh đang triển xây dựng Quy hoạch tỉnh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2050, là cơ sở rất quan trọng để xây dựng và triển khai các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, định hướng đầu tư của xã hội và đầu tư công trên địa bàn tỉnh Bình Định, đảm bảo tính khách quan, khoa học. Triển khai thực hiện có hiệu quả đồ án Quy hoạch xây dựng vùng tỉnh Bình Định đến năm 2035 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trong đó, vừa tăng cường sự liên kết giữa các vùng, các địa phương; vừa chú trọng phát huy lợi thế của các khu vực và các địa phương trong tỉnh. Cụ thể: Đối với khu vực đô thị: Tập trung tổ chức triển khai thực hiện Quy hoạch chung (điều chỉnh) xây dựng thành phố Quy Nhơn và vùng phụ cận; tiếp tục đầu tư phát triển các thị xã An Nhơn, Hoài Nhơn theo hướng đạt chuẩn đô thị loại III; Tây Sơn đạt tiêu chí đô thị loại IV và phát triển hệ thống đô thị trên địa bàn tỉnh theo quy hoạch; đến cuối năm 2021 tỷ lệ đô thị hóa đạt 46,1%. Hệ thống cung cấp nước sạch, xử lý nước thải, chất thải rắn tại các đô thị được quan tâm đầu tư, đến cuối năm 2021, tỷ lệ dân số đô thị được cung cấp nước sạch là 80,06%, đến nay đạt 82%; tỷ lệ chất thải rắn đôthị được thu gom, xử lý đạt 80,65%. Tiếp tục đầu tư các dự án nhà ở, nhà ở xã hội theo chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở, nhà ở xã hội đã được phê duyệt. Đối với khu vực đồng bằng, trung du: Kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới, nâng cao trình độ sản xuất nông nghiệp tiếp tục được quan tâm đầu tư, ngành nghề nông thôn được tiếp tục khôi phục, trong đó chú trọng phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ gắn với sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản, nhất là công nghiệp chế biến, dịch vụ cung ứng vật tư sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm, du lịch cộng đồng; đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn; giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp trong cơ cấu lao động xã hội, góp phần đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho dân cư nông thôn. Đẩy mạnh xây dựng các khu đô thị, khu dân cư theo quy hoạch. Đối với khu vực miền núi: Tiếp tục triển khai có hiệu quả 02 Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững; chuẩn bị kế hoạch triển khai có hiệu quả 03 chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025, đến nay đã hoàn chỉnh kế hoạch thực hiện và dự kiến trình HĐND tỉnh thông qua tại kỳ họp giữa năm 2022. Công tác giảm nghèo và an sinh xã hội miền núi tiếp tục được đảm bảo, tạo điều kiện cho Nhân dân tiếp cận ngày càng tốt hơn với các dịch vụ xã hội cơ bản. Nhiều chính sách, xã hội được đi vào cuộc sống, đóng vai trò là đòn bẩy hỗ trợ các đối tượng yếu thế vươn lên, giúp người dân thấy được quyền lợi từ đó chung sức đồng lòng phát huy tiềm năng lợi thế phát triển kinh tế - xã hội. Tính đến cuối năm 2021, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm còn 3,13% (theo tiêu chuẩn mới là 5,78%), tỷ lệ hộ cận nghèo 6,97%, trong đó, tỷ lệ nghèo của dân tộc thiểu số trên địa bàn là 60,8%. Đối với khu vực biển và ven biển: Tiếp tục triển khai thực hiện Chương trình hành động của Tỉnh ủy về phát triển bền vững kinh tế biển. Tập trung đầu tư, phát triển du lịch biển đảo gắn với du lịch văn hóa, lịch sử. Nâng cao hiệu quả khai thác các cảng biển và dịch vụ vận tải biển của tỉnh. Khuyến khích các hoạt động nuôi trồng, khai thác hải sản công nghệ cao, bền vững. Đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ có lợi thế và phát triển các ngành kinh tế biển mới. Các công trình giao thông, thủy lợi, hệ thống đê sông, đê biển, hạ tầng nuôi trồng thủy sản được tập trung đầu tư. III. Cải thiện môi trường đầu tư, phát triển các thành phần kinh tế
Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh được nâng cao, năm 2021, Bình Định tăng từ vị trí thứ 37, nhóm Trung bình (năm 2020) lên thứ 11, nhóm Tốt. Đây được xem là kết quả rất tích cực, cho thấy sự nỗ lực trong cải thiện môi trường đầu tư của toàn tỉnh trong bối cảnh tình hình Covid19 diễn biến phức tạp. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính phục vụ người dân và doanh nghiệp. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong cải cách hành chính; đẩy mạnh thực hiện dịch vụ công trực tuyến; thực hiện công khai, minh bạch thông tin đi đôi với chấn chỉnh lề lối, tác phong làm việc của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục phát huy hiệu quả hoạt động Trung tâm phục vụ hành chính công của tỉnh và bộ phận một cửa tại các huyện, thị xã, thành phố.
Các thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh tiếp tục phát triển. Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa theo đúng lộ trình, hoạt động có hiệu quả. Kinh tế tư nhân, hộ gia đình phát triển khá và chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế. Tính từ đầu kỳ đến nay, số lượng doanh nghiệp thành lập mới đạt 1.573 doanh nghiệp, với tổng vốn đăng ký khoảng 18.894,4 tỷ đồng, vốn bình quân 12 tỷ đồng/doanh nghiệp, số vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp đang hoạt động đạt 32,791 tỷ đồng; đến nay, toàn tỉnh có 86 dự án FDI với tổng vốn đăng ký trên 1,08 tỷ USD; trong đó, có 38 dự án trong Khu kinh tế và Khu công nghiệp với tổng vốn đăng ký 843,3 triệu USD và 48 dự án ngoài Khu kinh tế và Khu công nghiệp với tổng vốn đăng ký 245,5 triệu USD. Bên cạnh đó, thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, ưu tiên các ngành, lĩnh vực, doanh nghiệp thích ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.0. IV. Phát triển các lĩnh vực văn hóa - xã hội 1. Về giáo dục - đào tạo: Lĩnh vực giáo dục và đào tạo tiếp tục được đổi mới, chất lượng ngày càng được nâng cao, kết quả xóa mù chữ, phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi, tiểu học, trung học cơ sở được duy trì vững chắc; bước đầu triển khai thực hiện phổ cập trung học phổ thông ở những nơi có điều kiện. Công tác giáo dục - đào đạo ở miền núi, vùng sâu, vùng xa trong tỉnh được quan tâm. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên phát triển cả về chất và lượng. Công tác quản lý giáo dục được chú trọng. Quy mô giáo dục, mạng lưới trường, lớp học tiếp tục phát triển, toàn tỉnh hiện có 389/626 trường mầm non, phổ thông đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 62,14%. Chủ trương xã hội hóa giáo dục tiếp tục được quan tâm triển khai thực hiện; phong trào toàn dân chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo ngày càng sâu rộng. Hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập tiếp tục được đẩy mạnh. Các cơ sở giáo dục - đào tạo trên địa bàn được tổ chức lại theo hướng tinh gọn, hiệu quả. 2. Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh:
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, nhiệm kỳ 2020-2025, với trọng tâm khâu đột phá thứ hai là tập trung “đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo định hướng phát triển của tỉnh, nhất là nhân lực công nghệ thông tin, kỹ thuật công nghệ, du lịch, công nghiệp công nghệ cao; thực hiện chính sách thu hút lao động chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế”, Chương trình hành động số 07-CTr/TU ngày 14/5/2021 của Tỉnh ủy về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh giai đoạn 2020 – 2025, UBND tỉnh đã có Quyết định số 3807/QĐ-UBND ngày 14/9/2021 ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện; đồng thời, tham mưu HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐND ngày 23/3/2022 về việc kéo dài thực hiện Nghị quyết số 08/2015/NQ-HĐND ngày 10/7/2015 của HĐND tỉnh về việc quy định một số chính sách thu hút và ưu đãi đối với bác sỹ, dược sỹ. Bên cạnh đó, UBND tỉnh đang xây dựng Chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao và hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2022-2025, dự kiến trình HĐND tỉnh thông qua trong tháng 7/2022. Các cơ chế, chính sách trợ cấp đối với cán bộ công chức, viên chức, được cử đi đào tạo, chính sách hỗ trợ người sử dụng lao động và người lao động trong công tác đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh tiếp tục được quan tâm thực hiện nghiêm túc, hiệu quả.
Từ năm 2021 đến nay, số lượng bác sĩ dược sĩ tuyển dụng theo diện thu hút là 23 người, góp phần quan trọng làm giảm tình trạng thiếu hụt bác sĩ, dược sĩ, đáp ứng tốt hơn cho công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân đặc biệt là trong tình hình Covid-19 diễn biến phức tạp trong thời gian qua tên địa bàn tỉnh.
Công tác đào tạo nghề dần dần đổi mới, theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và nhu cầu xã hội. Chất lượng đào tạo nghề được nâng cao, chú trọng đào tạo công nhân lành nghề bậc cao cho các khu công nghiệp, lao động có tay nghề cao cho các ngành dịch vụ và lao động xuất khẩu; quan tâm đào tạo lại lực lượng lao động phải chuyển đổi nghề nghiệp do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Tỷ lệ đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh đến nay đạt 58%, giải quyết việc làm năm 2021 cho 25.146 lao động. 3. Phát triển khoa học - công nghệ, và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu: 3.1. Về khoa học và công nghệ:
UBND tỉnh đã xây dựng kế hoạch triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội XX Đảng bộ tỉnh về phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Bình Định giai đoạn 2020 – 2025 với mục tiêu Phát triển khoa học - công nghệ tạo nền tảng phát triển nhanh, bền vững, đưa khoa học và công nghệ thành động lực phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng với yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Tiếp tục triển khai xây dựng dự án Tổ hợp Không gian Khoa học. Tỉnh đang hoàn thiện trình Chính phủ triển khai thí điểm đề án “Phát triển Khu Đô thị Khoa học Quy Hòa đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035” với định hướng phát triển Quy Nhơn thành một thành phố Khoa học hàng đầu của Việt Nam, trong tương lai là nơi tổ chức các hoạt động giao lưu, gặp gỡ của các nhà khoa học quốc tế; phát huy chất xám trong nghiên cứu khoa học, gắn kết giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học và hoạt động phát triển công nghệ với sản xuất, kinh doanh và dịch vụ; thu hút các nguồn lực trong nước và nước ngoài, tạo động lực thúc đẩy phát triển Khoa học.
Triển khai xây dựng Kế hoạch phát triển, nâng cao năng lực hệ thống các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ, phát triển mạnh mẽ thị trường khoa học và công nghệ. Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng nhất là ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất và đời sống đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả một số cây trồng, vật nuôi và sản phẩm hàng hóa, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân..., thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hoạt động khởi nghiệp, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đạt một số kết quả tích cực, năng suất các yếu tố tổng hợp năm 2021 đạt 33,2%, tăng 1,3 % so với năm 2020. 3.2. Về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu:
Công tác bảo vệ môi trường được chú trọng; thực hiện nhất quán chủ trương không thu hút, cấp phép các dự án đầu tư sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường; tăng cường kiểm tra, kiểm soát ô nhiễm môi trường tại các khu, cụm công nghiệp, khu chăn nuôi gia súc tập trung, nuôi trồng thủy hải sản, làng nghề, các điểm khai thác, chế biến khoáng sản; tổ chứcthu gom, xử lý rác sinh hoạt - công nghiệp theo công nghệ tiên tiến.
Công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai được quan tâm; triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu. Lồng ghép công tác ứng phó với biến đổi khí hậu vào kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và các địa phương. Tăng cường năng lực quan trắc, dự báo thiên tai và biến đổi khí hậu để có kế hoạch ứng phó kịp thời, hiệu quả. Chủ động di dời, sắp xếp lại các điểm dân cư ở những vùng thường xuyên bị tác động bởi thiên tai; nâng cao nhận thức và khả năng chủ động phòng ngừa, ứng phó với thiên tai cho cộng đồng; công tác quy hoạch đã chú trọng đến thoát lũ và chống ngập. 4. Phát triển văn hóa, thông tin - truyền thông, thể dục - thể thao:
Hoạt động văn hóa, thông tin - truyền thông, thể dục - thể thao có nhiều tiến bộ. Tiếp tục đầu tư phát triển sự nghiệp văn hóa, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống, tập quán tốt đẹp của mỗi địa phương. Tập trung giáo dục lòng yêu nước, nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, ý thức trách nhiệm xã hội; ý chí, khát vọng vươn lên của mỗi người dân, nhất là thế hệ trẻ, nâng cao chất lượng gia đình. Đẩy mạnh phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều sâu. Công tác bảo tồn, trùng tu và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hoá, di tích cách mạng được quan tâm đầu tư, đặc biệt là trùng tu, tôn tạo đối với các di tích có dấu hiệu xuống cấp; xây dựng Bảo tàng tỉnh. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động văn hóa, nghệ thuật; duy trì và nâng cao chất lượng các lễ hội truyền thống, lễ hội văn hóa - thể thao. Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc thiểu số; thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa miền núi và miền xuôi. Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; thực thi quyền tác giả; tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ văn nghệ sĩ sáng tạo và cống hiến.
Các hoạt động, phòng trào thể dục thể thao quần chúng được diễn ra theo kế hoạch. Các huyện, thị xã, thành phố tiếp tục tổ chức các môn thi đấu trong Chương trình Đại hội Thể dục thể thao và tham gia Đại hội Thể dục thể thao cấp tỉnh. Các vận động viên của tỉnh trong đội tuyển Việt Nam tham dự SEA Games 31 đạt 04 huy chương vàng và 01 huy chương bạc.
Đến nay, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết về chuyển đổi số tỉnh Bình Định đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 và UBND tỉnh ban hành Đề án thành lập Khu Công viên phần mềm Quang Trung – Bình Định. Bên cạnh đó, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình “Sóng và máy tính cho em” để cung cấp, hỗ trợ máy tính, các thiết bị, nền tảng công nghệ, dịch vụ viễn thông cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19. Đã khánh thành và đưa vào hoạt động Trung tâm Giám sát, điều hành đô thị thông minh tỉnh Bình Định. 5. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân; dân số kế hoạch hóa gia đình; bảo vệ, chăm sóc bà mẹ trẻ em:
Chương trình mục tiêu quốc gia về y tế - dân số tiếp tục được triển khai thực hiện hiệu quả. Công tác y tế dự phòng, phòng chống dịch bệnh và vệ sinh môi trường được quan tâm. Các cấp, các ngành trong tỉnh đã triển khai nghiêm túc, kịp thời, có hiệu quả các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 theo chỉ đạo của Trung ương và của tỉnh. Đã kiện toàn Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 và Trung tâm Chỉ huy phòng, chống dịch các cấp. Phát động phong trào “Tỉnh Bình Định đoàn kết, quyết tâm chiến thắng đại dịch Covid-19”, huy động cả hệ thống chính trị và toàn dân trong tỉnh tham gia phòng, chống dịch; thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn; tổ chức tốt chiến dịch tiêm chủng vắc xin; tham gia hỗ trợ các tỉnh, thành phía Nam chống dịch và tổ chức đón một số đối tượng khó khăn người Bình Định từ các tỉnh, thành phía Nam về tỉnh. Đến nay, dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh cơ bản được kiểm soát, số ca mắc trong cộng đồng giảm mạnh, đời sống người dân đã từng bước ổn định trở lại sau thời gian khó khăn vì dịch bệnh. Công tác tiêm phòng vắc xin tiếp tục được triển khai, tính đến nay, tỷ lệ người dân từ 18 tuổi trở lên được tiêm ít nhất 1 mũi vacxin là 99,9%, tỷ lệ tiêm đủ 2 mũi là 97%, đã tiêm nhắc lại cho trên 525.900 người, tiêm mũi bổ sung cho trên 368.200 người. Ngoài ra, tỷ lệ tiêm mũi 1 trẻ từ 12 đến 17 tuổi, đạt 99,4%; mũi 2 đạt 97,5%. Đã tổ chức tiêm mũi 1 vắc xin cho 33.746/169.534 trẻ từ 5 đến 11 tuổi.
Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân có nhiều tiến bộ; mức hưởng thụ các dịch vụ y tế của nhân dân ngày càng tăng, đặc biệt là trẻ em, người nghèo, đối tượng chính sách,đồng bào dân tộc thiểu số. Mạng lưới y tế cơ sở tiếp tục được củng cố, nâng cấp, mở rộng; đến nay, có 100% xã, phường, thị trấn được công nhận đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế đều có bác sĩ.
Tiếp tục đầu tư, hoàn thiện kết cấu hạ tầng và trang thiết bị các cơ sở y tế. Nâng cao chất lượng hoạt động mạng lưới y tế cơ sở; đẩy mạnh thực hiện bảo hiểm y tế (đến nay, tỷ lệ bảo hiểm y tế toàn dân trên địa bàn tỉnh đạt trên 95%). Tăng cường công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực y tế, chú trọng công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Tiếp tục tăng cường quản lý và tạo điều kiện thuận lợi để hệ thống y tế ngoài công lập phát triển, nhất là đối với việc khám chữa bệnh ban đầu, tư vấn sức khỏe, chăm sóc y tế và cung ứng thuốc chữa bệnh cho nhân dân, góp phần giảm quá tải và nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho Nhân dân tại các tuyến bệnh viện công lập cấp tỉnh và huyện, thị xã, thành phố.
Công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe bà mẹ và trẻ em, kế hoạch hóa gia đình, nâng cao chất lượng dân số đạt nhiều kết quả tích cực; duy trì mức sinh thay thế bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có từ 2 đến 2,2 con; tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể nhẹ cân giảm còn 8% năm 2021. 6. Giải quyết các vấn đề xã hội: Mặc dù doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh do ảnh hưởng bởi dịch bệnh nhưng hầu hết các doanh nghiệp thực hiện tốt việc trả lương cho người lao động, không có doanh nghiệp nợ lương người lao động; chưa có tình trạng đình công, lãng công xảy ra trên địa bàn tỉnh. Tiền lương bình quân của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh khoảng từ 5,5 - 9 triệu đồng/tháng.
Công tác đào tạo nghề, xuất khẩu lao động, chăm lo gia đình chính sách, người nghèo luôn được các cấp, các ngành và toàn xã hội quan tâm chú trọng. Tiếp tục triển khai hoạt động xuất khẩu lao động vào các thị trường có thu nhập cao, ổn định, năm 2021, đã đưa 522 lao động tham gia xuất khẩu lao động, đạt 74,57% kế hoạch năm. Đã phê duyệt 6.837 dự án vay vốn tạo việc làm với số tiền 309 tỷ đồng, hỗ trợ việc làm cho 9.423 lao động. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề, bồi dưỡng nghề đạt 58%. Công tác giảm nghèo tiếp tục được quan tâm, tỷ lệ hộ nghèo bình quân toàn tỉnh theo chuẩn nghèo đa chiều còn 3,13%, giảm 0,92% so với năm 2020.
Công tác chăm sóc người có công được chú trọng, đến nay, 100% Mẹ Việt Nam Anh hùng còn sống đều được các cơ quan, đơn vị nhận phụng dưỡng, mức phụng dưỡng thấp nhất 500 ngàn đồng/tháng và cao nhất 1,2 triệu đồng/tháng; các dịp Lễ, Tết hàng năm các Mẹ đều được các cơ quan, đơn vị thăm, tặng quà chúc tết; công tác bảo trợ, cứu trợ xã hội được thực hiện kịp thời, đúng đối tượng; việc chăm lo đời sống hộ nghèo, chăm sóc, bảo vệ trẻ em... tiếp tục được quan tâm thực hiện. Tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho người già, người có công với nước, người có hoàn cảnh neo đơn và trao tặng học bổng cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em đang được chăm sóc, nuôi dưỡng tại các Trung tâm Bảo trợ xã hội, Làng trẻ em SOS Quy Nhơn và trẻ em của Trường Chuyên biệt Quy Nhơn vào các dịp Lễ, Tết trong năm. Thực hiện tốt các chính sách về bình đẳng giới, vì sự tiến bộ phụ nữ và bảo vệ quyền trẻ em. V. Tăng cường quốc phòng an ninh và xây dựng chính quyền và cải cách hành chính
Công tác quốc phòng an ninh luôn được đảm bảo, công tác huấn luyện quân sự, giáo dục quốc phòng và xây dựng lực lượng tiếp tục triển khai theo kế hoạch. Đã tổ chức lễ giao quân đạt 100% chỉ tiêu; tham gia bảo vệ an toàn các ngày Lễ lớn của tỉnh và của đất nước. Các lực lượng chức năng đã chủ động nắm bắt tình hình, phát hiện, xử lý kịp thời nhiều vụ việc liên quan đến an ninh chính trị. Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm được tăng cường; đã tổ chức nhiều đợt cao điểm ra quân tấn công, trấn áp các loại tội phạm, băng nhóm và phòng chống tệ nạn xã hội tương đối có hiệu quả. Tai nạn giao thông tiếp tục được kiềm chế, giảm cả 3 mặt về số vụ, số người chết và người bị thương.
Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 đã được tổ chức thành công và đảm bảo an toàn, phát huy được tinh thần dân chủ, công khai, minh bạch, với tỷ lệ cử tri đi bầu đạt 99,83%.
Tiếp tục triển khai thực hiện các Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017, số 19-NQ/TW ngày 25/10 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII sắp xếp lại hệ thống chính trị tinh gọn; đã và đang tổ chức sắp xếp các tổ chức bên trong cơ quan chuyên môn cấp tỉnh; phê duyệt Đề án sắp xếp, tổ chức lại 06 cơ quan, đơn vị; triển khai thực hiện tinh giản biên chế gắn với việc đẩy mạnh cải cách hành chính theo Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 24/01/2018 của Chính phủ và Kế hoạch số 35-KH/TU ngày 04/6/2018 của Tỉnh ủy. Tăng cường công tác kiểm tra cải cách hành chính, thực thi công vụ tại các cơ quan, đơn vị qua đó đã kịp thời chấn chỉnh, xử lý trách nhiệm đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm. Tổ chức thành công kỳ thi nâng ngạch, thăng hạng chuyên viên chính, phục vụ công tác quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh. Công tác kiểm soát TTHC gắn với giải quyết TTHC theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông trên địa bàn tỉnh tiếp tục phát huy những kết quả tích cực. UBND tỉnh ban hành 886 TTHC mới ban hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế; phê duyệt 291 quy trình nội bộ giải quyết TTHC 03 cấp trên địa bàn tỉnh; đơn giản hóa 50 thủ tục hành chính thuộc một số ngành, lĩnh vực (ước tính tiết kiệm chi phí cho các cá nhân, tổ chức 1,8 tỷ đồng/năm); đồng thời, ban hành Quy chế hoạt động Kiểm soát thủ tục hành chính; Đề án “Phát huy vai trò của thanh niên trong công tác tuyên truyền, vận động, hướng dẫn Dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 cho người dân tại khu dân cư trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2021 – 2026”; Kế hoạch triển khai Đề án “Đổi mới việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính” trên địa bàn tỉnh; Quy định thực hiện liên thông nhóm TTHC trên một số lĩnh Y tế - Tư pháp, Việc làm - Tư pháp; công bố Danh mục 1.224 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 trên Cổng Dịch vụ công tỉnh (chiếm tỷ lệ 80%). Bên cạnh đó, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương đẩy mạnh thực hiện dịch vụ “Chứng thực bản sao điện tử từ bản chính” (kết quả tiếp nhận và giải quyết 8.092 hồ sơ bản sao điện tử), tăng cường thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 (kết quả tiếp nhận 37.227 hồ sơ trực tuyến), đẩy mạnh thanh toán trực tuyến trong giải quyết TTHC (theo thống kê từ tài khoản Cổng Dịch vụ công quốc gia, tỉnh Bình Định là một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về tỷ lệ hồ sơ giao dịch thanh toán trực tuyến với 6.145 giao dịch thành công, tương ứng với số tiền giao dịch là 12,5 tỷ đồng). Đồng thời, duy trì hoạt động Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh ngày càng đi vào làm việc nền nếp, hiệu quả, khẳng định được vị trí, vai trò quan trọng trong công tác giải quyết TTHC cho tổ chức, công dân và doanh nghiệp. Trong năm 2021, toàn tỉnh đã giải quyết 410.285 hồ sơ TTHC, tỷ lệ giải quyết đúng hạn đạt 98,9% (tăng 3,4% so với năm 2020), trong đó có 1.070 hồ sơ trễ hẹn trên lĩnh vực đất đai; riêng Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh đã tiếp nhận, giải quyết và trả kết quả đúng hạn 56.467/56.623 hồ sơ, đạt tỷ lệ 99,72% (có 156 hồ sơ trễ hạn, chiếm tỷ lệ 0,28%, chủ yếu trên các lĩnh vực kế hoạch và đầu tư, tài nguyên và môi trường và một số lĩnh vực khác). Năm 2021, Chỉ số PAR INDEX của tỉnh đạt 86.70%, xếp hạng 30/63 tỉnh, thành phố (tăng 2.73 điểm và tăng 01 bậc so với năm 2020); Chỉ số SIPAS đạt 87.67%, xếp hạng 23/63 tỉnh, thành phố (tăng 06 bậc so với năm 2020); Chỉ số PCI đạt 68.32%, xếp hạng 11/63 tỉnh, thành phố (tăng 26 bậc so với năm 2020). VI. Tăng cường quan hệ đối ngoại Quán triệt và thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn mối quan hệ hợp tác với các đối tác truyền thống của tỉnh, nhất là mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt giữa Bình Định với các tỉnh Nam Lào; tăng cường xúc tiến, mở rộng quan hệ hợp tác với các đối tác ở các quốc gia và vùng lãnh thổ. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; tăng cường phối hợp giữa các kênh, cơ quan đối ngoại của tỉnh; chú trọng nâng cao tính hiệu quả, thiết thực trong các mối quan hệ đối ngoại. C. Hạn chế, nguyên nhân.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác chỉ đạo tổ chức thực hiện phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh còn những khuyết điểm, tồn tại đó là:
1. Sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, (riêng năm 2021 có 330 doanh nghiệp phải giải thể và chấm dứt hoạt động, 500 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động); một số doanh nghiệp phải ngừng sản xuất trong thời gian khá dài. Một số ngành sản xuất chủ lực của tỉnh sụt giảm sản lượng đáng kể (chế biến gỗ, sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất, sản xuất kim loại, sản xuất trang phục, tinh bột sắn, thức ăn gia cầm, gạch và gạch khối xây dựng bằng xi măng, bê tông...); các doanh nghiệp tiếp tục gặp khó khăn trước ảnh hưởng từ cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine đã đẩy giá nhiều loại hàng hóa, nguyên, nhiên vật liệu tăng, cước vận tải biển luôn ở mức cao và tình trạng thiếu container rỗng chưa được khắc phục…; giá xăng dầu tăng đã tác động làm tăng giá thành sản phẩm hàng hóa và dịch vụ gây áp lực lên hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là gia tăng chi phí sản xuất và hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp; các ngành dịch vụ tiếp tục gặp nhiều khó khăn, số khách và doanh thu du lịch giảm mạnh… Công tác thu hút đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài gặp nhiều khó khăn.
2. Ngành nông nghiệp gặp nhiều khó khăn do đứt gãy chuỗi cung ứng, tiêu thu; giá của nhiều mặt hàng nông, lâm, thủy sản giảm, khó tiêu thụ; giá nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất tăng cao; dịch bệnh trên động vật, nhất là bệnh viêm da nổi cục trên trâu bò lan rộng trên toàn tỉnh, gây thiệt hại cho người chăn nuôi. Tình trạng cháy rừng, phá rừng, lấn chiếm đất đai, khai thác hải sản trái phép tài nguyên, khoáng sản vẫn còn xảy ra. Hoạt động khai thác hải sản trái phép ở các vùng biển nước ngoài vẫn chưa chấm dứt. Ô nhiễm môi trường tại một số địa phương, cụm công nghiệp, làng nghề và khu chăn nuôi tập trung chưa được khắc phục triệt để.
3. Các hoạt động giáo dục, văn hóa thể dục thể thao, lao động, việc làm bị tác động mạnh bởi dịch Covid-19, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, sinh hoạt và thu nhập của mỗi người dân (nhất là các ngành dịch vụ, khách sạn, nhà hàng).
4. Tình trạng mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy còn diễn biến phức tạp; tội phạm chống người thi hành công vụ có chiều hướng gia tăng; tai nạn giao thông tuy giảm cả 3 tiêu chí nhưng còn ở mức cao. Việc chỉ đạo xử lý, giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo ở một số ngành, địa phương còn chậm,.. Nguyên nhân của những khuyết điểm, tồn tại nêu trên là do những yếu tố khách quan và tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến nhanh, phức tạp, tác động tiêu cực đến mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, gây gián đoạn và đình trệ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đứt gãy lưu thông hàng hóa; một số doanh nghiệp phải giải thể, tạm dừng hoạt động, thu hẹp quy mô; ảnh hưởng mạnh đến tâm lý và đời sống người dân… các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp tiếp tục gặp khó khăn trước ảnh hưởng từ cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine đã gây áp lực lên hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, có một số nguyên ngân chủ quan của một số sở, ban, ngành và địa phương trong chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện có lúc, có nơi còn chủ quan, bị động, lúng túng, chưa đồng bộ trong xử lý các tình huống cụ thể, đột xuất. D. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NHỮNG THÁNG CUỐI NĂM 2022 VÀ CÁC NĂM TIẾP THEO
Năm 2022 và các năm tiếp theo, dự báo nền kinh tế có xu hướng phục hồi nhưng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro và thách thức, đặc biệt dịch Covid-19 với biến thể mới còn diễn biến phức tạp, khó lương. Kinh tế của tỉnh tiếp tục đối mặt với những khó khăn, thách thức. Do đó, nhằm phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội 5 năm giai đoạn 2021-2025 tiếp tục duy trì mức độ tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững. Phát huy tiềm năng, lợi thế so sánh của tỉnh và huy động tổng hợp các nguồn lực cho đầu tư phát triển; tích cực thu hút đầu tư; tạo điều kiện thuận lợi để các dự án lớn sớm triển khai trên địa bàn tỉnh; đẩy nhanh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chú trọng đổi mới sáng tạo. Gắn phát triển kinh tế với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chủ động đối phó với biến đổi khí hậu và phòng ngừa, giảm thiểu tác hại của thiên tai; quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng - an ninh. Huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm đẩy nhanh tốc độ, nâng cao chất lượng tăng trưởng, phấn đấu xây dựng Bình Định trở thành tỉnh phát triển thuộc nhóm dẫn đầu của khu vực miền Trung, cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau:
1. Tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc, đồng bộ, có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp tại các Nghị định, Nghị quyết của Chính phủ, trọng tâm là thực hiện Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 99/NQ-CP ngày 30/8/2021 và Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 20/5/2021 của Chính phủ.
2. Tiếp tục tổ chức thực hiện các Chương trình, kế hoạch thực hiện các Chương trình hành động của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII và Nghị quyết Đại hội XX Đảng bộ tỉnh, đặc biệt là 06 Kế hoạch: Phát triển du lịch Bình Định trở thành ngành kinh tế mũi nhọn giai đoạn 2020-2025; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh Bình Định giai đoạn 2020-2025; Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và làng nghền trên địa bàn tỉnh Bình Định giai đoạn 2020-2025; Phát triển nông nghiệp công nghệ cao gắn với đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Bình Định giai đoạn 2020-2025; Phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Bình Định giai đoạn 2020 – 2025; Cải cách hành chính, trọng tâm là tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, giai đoạn 2020 – 2025.
3. Tiếp tục tuyên truyền, hướng dẫn tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và mức độ 4. Nâng cao tỷ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến, đảm bảo công khai, minh bạch trong giải quyết thủ tục hành chính.
4. Tiếp tục thực hiện các giải pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, hộ gia đình có công với cách mạng, bảo trợ xã hội, hộ nghèo, cận nghèo, người lao động bị mất việc làm, góp phần tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội.
5. Rà soát các nguồn thu trên địa bàn, các khoản thất thu, xác định các nguồn thu còn tiềm năng, các loại thuế để có giải pháp cụ thể nhằm bù đắp phần hụt thu ngân sách. Tăng cường khai thác các nguồn thu mới. Đồng thời rà soát các nhiệm vụ chi thường xuyên, cắt giảm các khoản chi chưa thật sự bức xúc, cần thiết, trong điều kiện ngân sách hụt thu và ưu tiên bố trí cho các khoản chi bức xúc như chi công tác phòng, chống thiên tai, dịch bệnh.
6. Thực hiện tốt kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 và hằng năm, đảm bảo tiến độ giải ngân. Rà soát, sắp xếp thứ tự ưu tiên các công trình, dự án; quan tâm bố trí vốn đầu tư các công trình trọng điểm.
7. Tăng cường công tác quản lý hạ tầng kỹ thuật, quản lý xây dựng, chất lượng xây dựng, trật tự, kỷ cương đô thị. Tiếp tục giao đất, cho thuê đất; thẩm định bồi thường hỗ trợ và tái định cư; giải phóng mặt bằng các dự án; kịp thời bố trí tái định cư cho các hộ dân có đất bị thu hồi. Tổ chức kiểm tra về đất đai, môi trường.
8. Tăng cường triển khai các biện pháp để chủ động ứng phó với các loại tội phạm trong tình hình dịch bệnh vẫn còn đang diễn biến phức tạp. Thường xuyên tuần tra, kiểm soát và mở các đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm. Tăng cường vai trò của chính quyền địa phương, tinh thần tích cực của các tầng lớp nhân dân cùng tham gia thực hiện tốt các nhiệm vụ về quốc phòng - an ninh, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội./.
Phê duyệt quy trình nội bộ giải quyết thủ tục hành chính liên thông trong lĩnh vực Đầu tư tại Việt Nam thuộc phạm vi chức năng quản lý của Sở Kế hoạch và Đầu tư